Nguyễn Trãi
(1380-1442) là người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn "viết thư thảo hịch
tài giỏi hơn hết một thời", là tác giả áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô Đại
Cáo “Ức Trai thi tập” và "Quốc âm thi tập " là hai tập thơ của Nguyền
Trãi làm rạng rỡ nền thi ca Đại Việt.
Bài thơ
"Cửa Biển Bạch Đằng” rút trong "Ức Trai thi tập", một trong những
bài thơ kiệt tác ca ngợi đất nước và nhân tài Việt Nam. Bài thơ như một thiên bút
kí trữ tình về một cuộc du ngoạn tuyệt đẹp của thi nhân:
Biển lùa gió
bấc thổi băng băng,
Nhẹ kéo buồm
thơ vượt Bạch Đằng.
Ngạc chặt
kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm
gươm gãy bãi dăng dăng.
Quan hà hiểm
trở, Trời kia dựng,
Hào kiệt
công danh đất ấy từng.
Chuyện cũ
ngoảnh đầu, ôi đã dứt,
Dòng trôi
tìm bóng dạ bâng khuâng
Mở đầu bài
thơ là hình ảnh "cánh buồm thơ" căng gió lướt nhẹ vượt Bạch Đằng
Giang. Một không gian mênh mông, bao la biển Trời sông nước. Gió biển lùa thổi
mạnh, con thuyền lướt "băng băng" trên mặt biển. Cảnh quan bao la ấy
của biển Trời đã khơi dậy một tứ thơ khoáng đạt dâng lên dào dạt trong tâm hồn
phơi phới của thi nhân. Du khách cùng với con thuyền và cánh buồm thơ đang sống
trong tâm thơ vô cùng ung dung, thư thái:
"Biển
lùa gió bấc thổi băng băng,
Nhẹ kéo buồm
thơ vượt Bạch Đằng"
Ức Trai đến
với dòng sông, cửa biển không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp kì thế của thiên nhiên
mà còn muốn tìm lại một thời đã qua, một thời oanh liệt về dòng sông lịch sử
này. Hai câu thực là bức tranh hoành tráng về dòng sông, cửa biển Bạch Đằng:
"Ngạc
chặt kình băm non lỏm chởm,
Giáo chìm
gươm gãy bãi dăng dăng"
Núi, sông, bờ
bãi hiện lên qua vần thơ và các hình ảnh ẩn dụ: “Ngạc ”, "kình "
"gươm giáo " mang ý nghĩa tượng trưng. Trên cửa biển Bạch Đằng, núi
chập chùng như bức trường thành chẳng khác nào đàn cá ngạc, cá kình - lũ giặc
phương Bắc bị nhân dân ta căm giận băm vằm và chặt thành từng khúc. Bờ bãi nhấp
nhô “dăng dăng " kéo dài vô tận như giáo gươm của lũ giặc ngoại xâm bị
nhân dân ta đánh chìm, bẻ gãy chất đống mà thành.
Phép đối thần
tình tạo nên vần thơ cân xứng hài hòa, cảnh vật cao thấp, xa gần đầy ấn tượng.
Chất thơ dạt dào cảm hứng lịch sử đã đem đến cho người đọc những liên tưởng đầy
tự hào về dòng sông và chiến công oai hùng của tổ tiên. Người đọc như cùng nhà
thơ sống lại những năm tháng hào hùng thuở trước. Chính trên dòng sông Bạch Đằng
này năm 938, Ngô Quyền đại thắng giặc Nam Hán chém chết thái tử Hoàng Thao; Năm
1288, Trần Quốc Tuấn tiêu diệt 3 vạn quân Mông - Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi. Phải
có một tấm lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, Ức Trai mới viết nên
những vần thơ tráng lệ như vậy.
Tiếp theo phần
luận phép đối vẫn được sử dụng sáng tạo, cảm hứng lịch sử của thi nhân bừng
sáng, ý thơ càng trở nên thâm trầm sâu sắc. Bài học giữ nước về địa lợi, về
nhân hòa, về hào kiệt được nhà thơ nói lên rất thấm thía:
Quan hà hiểm
trở Trời kia dựng,
Hào kiệt
công danh Đất ấy từng
Địa thế Bạch
Đằng hiểm yếu, là tử địa đối với lũ giặc phương Bắc, cửa biển lòng sông hiểm yếu
ấy là quà tặng của thiên nhiên ban cho nhân dân ta để bảo vệ xã tắc “vững bền
muôn thuở". Đất nước ta, dân tộc ta, anh hùng hào kiệt thời nào cũng có. Họ
đã đem tài thao lược bài binh bố trận để lập nên những chiến công bất tử trên
dòng sông Bạch Đằng. Quan hà với hào kiệt, Trời với Đất, được đặt trong thế
đăng đối, Ức Trai muốn khắc sâu tư tưởng yêu nước chống xâm lăng. Cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ Quốc Đại Việt từng diễn ra trên Bạch Đằng là chính
nghĩa, lòng dân hợp lẽ Trời nên dã chiến thắng vẻ vang.
Hai câu kết,
giọng thơ sâu lắng với bao cảm xúc mênh mang. Niềm cảm hoài dào dạt. Tâm hồn
thi nhân như chan hòa với sông núi, mây Trời, sông nước. Tâm trí người anh hùng
"Bình Ngô" sống lại một thời quá khứ oanh liệt của tiền nhân, suy tư
trước những "việc cũ", tìm lại "bóng" những anh hùng thuở
trước mà lòng bâng khuâng. Câu thơ cảm thán vang lên bồi hồi, luyến tiếc, gợi
lên bao nỗi nhớ thương man mác:
"Việc
cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt,
Dòng trôi
tìm bóng dạ bâng khuâng"
Nguyễn Trãi
là nhà thơ viết nhiều, viết hay về cảnh trí thiên nhiên với một tình yêu tha
thiết đối với tạo vật, với một cảm hứng lịch sử tràn đầy tình yêu nước và niềm
tự hào dân tộc:
"Núi Dục
Thúy mưa tan, non tựa ngọc,
Cửa Đại An
triều dậy, nước ngang Trời"
"Côn
Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như
tiếng đàn cầm bên tai"
Đằng sau những
cảnh núi sông tráng lệ là hình ảnh nhân dân anh hùng được nhà thơ ca ngợi với tất
cả niềm tự hào về sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam.
Đọc bài thơ
"Cửa Biển Bạch Đằng", ta cảm nhận sâu sắc thêm vế đối của người xưa:
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng " - Ta thêm yêu đất nước và con người
Việt Nam, tự hào về những trang sử chống xâm lăng của nhân dân ta. Tâm hồn Ức
Trai đã hóa núi sông ta.
No comments:
Post a Comment