Một trong những tập tục của Thiếu đoàn Lê Lợi là vào sáng mồng hai tết nguyên đán hằng năm, các đội trưởng tập trung tại nhà của đội trưởng nhất để cùng nhau đến chúc tết các Trưởng trong Thiếu đoàn. Sau đó cùng kéo nhau đi chúc tết từng đoàn sinh cho đến tối. Sang ngày mồng ba tết là trại đoàn được tổ chức để mở đầu cho một năm hoạt động của Thiếu đoàn.
Tết Canh Tý năm 1960 , chúng tôi được các Trưởng cho biết trại
năm nay sẽ chinh phục đỉnh núi Langbian mà người dân Đà Lạt thường gọi là Núi
Bà, cao 2169 mét. Núi nằm về phía Bắc thành phố khoảng 30 cây số. Chung quanh
núi là rải rác các buôn làng của đồng bào sắc tộc người K’Ho – nơi mà chúng tôi
mong có cơ hội đặt chân đến sau rất nhiều lần đã từng cắm trại mạo hiểm đến những
địa danh như Cam Ly Thượng (không phải thác Cam Ly, thắng cảnh du lịch), Suối
Tía, Suối Tiên, Núi Voi, Lapbé Nord, Lapbé Sud, Suối Vàng, Suối Bạc, Thác
Gougar, thác Pongour, thác Prenn…
Vào thời điểm đó, chung quanh thành phố Đà Lạt vẫn còn khung
cảnh thiên nhiên một trăm phần trăm với đồi núi, thác ghềnh và những khu rừng
già bí hiểm gây sự tò mò và đánh thức óc
mạo hiểm của các Thiếu sinh như chúng tôi. Buổi sáng đứng từ trung tâm thành phố
nhìn về hướng Bắc, thấy sương mù bao phủ đỉnh núi, chỉ thấy được hai đỉnh núi
xanh biếc vào những ngày trời nắng ráo. Vào mùa khô, từ tháng mười cho đến tháng tư, dân Đà Lạt thường thấy cảnh
cháy rừng trên Núi Bà kéo dài có khi hơn cả tháng. Rừng cháy tạo ra những vòng
lửa sáng rực cả một vùng trời, đứng ở bất cứ vị trí nào trong thành phố cũng thấy
được cảnh cháy núi này. Những đám cháy như thế sẽ bị dập tắt khi có những trận
mưa lớn nhiều ngày chứ sức người thì không tài nào trị nổi mặc dù có các toán bảo
vệ rừng do những người dân sắc tộc thuộc
Ty Lâm sản thành phố đảm trách.
Bọn thiếu sinh chúng tôi ở Đà Lạt thường nghe những câu chuyện
có tính cách huyền thoại liên quan đến núi Langbian nhưng không mấy ai trong
chúng tôi quan tâm ngoài việc ao ước có một ngày được leo lên tận đỉnh núi để
nhìn về thành phố.
Thời tiết vào những ngày tết nguyên đán rất lạnh. Từ 6 giờ
sáng, các đội đã có mặt đông đủ tại nhà tôi vì lúc đó tôi là Đội trưởng nhất và
nhà tôi nằm trên đường dẫn đến Núi Bà. Các Trưởng Nguyễn Văn Võ, Lê Thuần, Nguyễn
Minh Hoàng cũng có mặt đúng giờ. Tất cả đều đi bằng xe đạp, ba lô trên vai và
dây gậy, trại cụ đầy đủ. Sau hơn một tiếng đồng hồ phi ngựa sắt, chúng tôi đã
có mặt dưới chân núi Langbian gồm 28 đoàn sinh và ba Trưởng. Chúng tôi vào làng
thượng Mang Linh để gửi xe đạp ở phía dưới nhà sàn của một gia đình người K’Ho
và không quên biếu gia đình này một bịch muối và năm ổ bánh mì do Trưởng Nguyễn
Minh Hoàng đem theo.
Chúng tôi được chia ra làm hai toán. Toán thứ nhất gồm đội
Sóc và đội Báo. Toán thứ hai có đội Voi và đội Hổ. Nguyễn Đức Quang đội trưởng
đội Voi, Trần Hữu Tân đội trưởng đội Hổ, đội Sóc do Lê Công Mừng và đội Báo là
Cao Duy Tuấn. Tôi được các Trưởng chỉ định cùng đi với toán thứ hai.
Toán Voi – Hổ đi sau toán Sóc – Báo 15 phút và trực chỉ lên đỉnh
Langbian. Rời làng lúc 9 giờ sáng với bản đồ và la bàn để chấm tọa độ đỉnh núi.
Lấy khởi điểm từ làng Mang Linh thì chúng tôi sẽ phải leo lên núi bằng hướng
đông bắc mười lăm độ. Ra khỏi làng độ nửa cây số, chúng tôi gặp gặp một cánh rừng
thưa đầy những hoa anh đào trắng đang nở rộ. Người Đà Lạt gọi hoa này là hoa anh đào xá lị,
hoa đẹp và có màu trắng. Ai đến Đa Lạt vào thời trước bảy lăm sẽ thấy cây đào xá
lị được trồng dọc hai bên đường Nguyễn Tri Phương, từ cây xăng Kim Cúc chạy xuống
đến Câu lạc bộ thể thao (cercle sportif) đối diện nhà Thủy Tạ và còn chạy thẳng
lên đến giáp đường Trần Hưng Đạo, bên dưới khách sạn Palace. Mặc dù rất thích
nhưng chúng tôi không một ai dám chặt hay bẻ hoa. Đây là rừng hoa thiên nhiên
ít ai biết đến trừ những người dân K’Ho ở gần đó nhưng chúng trôi không thấy dấu
vết gì chứng tỏ họ đụng đến rừng hoa anh đào này. Chúng tôi băng qua một con suối
nước trong vắt, bề ngang khoảng chừng 20 thước, chảy len qua những tảng đá nâu
đen tạo thành tiếng kêu róc rách. Sương mai vẫn chưa tan. Mặt trời vẫn chưa thấy
ở hướng đông. Đội trưởng Nguyễn Đức Quang đi đầu chốc chốc dừng lại để nhìn vào
la bàn. Tôi là người đi sau cùng của toán. Vừa ra khỏi khu rừng thưa thì chúng
tôi thấy Trưởng Nguyễn Minh Hoàng đang đứng chờ chúng tôi trên một tảng đá lớn.
Chúng tôi nhận được bản tin bằng Semaphore do Trưởng Hoàng gửi với nội dung: “Trình
diện thiếu trưởng và thiếu phó ở đỉnh núi mười hai giờ ba mươi với ba cành
phong lan”.
Đi hết khoảng dốc núi thoai thoải, chúng tôi bắt đầu vất vả để
trèo lên những đoạn có dốc đứng với cây cối chằng chịt và to cao. Chúng tôi
dùng gậy gạt những lùm bụi um tùm để mở
lối đi. Cứ độ mười lăm phút chúng tôi dừng lại để chờ nhau và định hướng
rồi leo tiếp. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp vài lối mòn do những người K’Ho tạo
thành để đi nhưng những lối này không cùng hướng đông bắc với chúng tôi. Càng
leo lên chúng tôi càng cảm thấy khí lạnh vây bủa, nhìn lên chỉ thấy những ngọn
cây xanh che khuất cả bầu trời bên trên. Những bụi cây và lá rừng hình như chẳng
bao giờ được sưởi ánh nắng mặt trời. Mùi ẩm ướt xông lên từ những lớp lá rả mục.
Những chiếc ba lô trên vai chúng tôi hình như mỗi lúc một gia tăng trọng lượng
khi chúng tôi phải cố vượt qua những tảng đá phía trước để tiến lên. Chúng tôi
kéo nhau băng qua những tảng đá hoặc phải đi vòng nếu gặp những tảng đá quá lớn
bám đầy rêu phong. Chúng tôi phải hết sức cẩn thận khi leo lên những tảng đá để
tránh trường hợp đá lăn xuống gây tai nạn nguy hiểm. Vô số dây leo chằng chịt
trước mặt to bằng cánh tay nhưng chúng tôi không có cơ hội bám vào để đu như
tarzan, điều mà chúng tôi đã làm nhiều lần khi cắm trại ở thác Prenn hay thác
Pongour. Chúng tôi quan sát những thân cây cổ thụ để tìm kiếm phong lan nhưng vẫn
chưa thấy. Khoảng hơn mười giớ chúng tôi ngồi túm tụ lại trên một tảng đá lớn để
lấy bánh tét và kẹo mứt ra ăn. Khi cả toán ngồi lại thì thấy thiếu Nguyễn Hữu
Tuệ, đội phó đội Hổ. Tôi lấy còi ra thổi một tiếng dài, sau đó liền nghe có tiếng
còi đáp lại. Tôi liền thổi hai tiếng còi liên tục nữa và cũng được đáp lại hai tiếng và chỉ trong
chưa đầy năm phút chúng tôi thấy Tuệ ôm một mớ phong lan trước ngực và miệng cười
toe toét. Thì ra anh chàng thấy phong lan trên cây nên âm thầm một mình dừng lại
để leo lên “thu hoạch” trọn ổ. Chúng tôi đếm được bảy giò phong lan. Thế là
toán chúng tôi đã có thừa “chiến lợi phẩm” của trời để trình diện cho thiếu trưởng
và thiếu phó. Có một điều hơi lạ khi đi trong rừng rậm và leo núi, không một ai
trong chúng tôi nghĩ đến sự nguy hiểm như gặp thú dữ. Chúng tôi cũng không thấy
rắn rết gì cả. Chỉ thỉnh thoảng mới nghe tiếng đập cánh của những con chim khi
chúng nghe tiếng động từ phía chúng tôi. Còn một điều nữa, đó là loài vắt mà
chúng tôi được biết hễ cứ sau một trận mưa là chúng ở đâu dưới những đám lá khô
mục hay lùm bụi chui ra cả bầy và bám vào chân, vào tay gỡ không ra. May là
chúng tôi đi vào mùa khô. Nghe nói khi bị vắt bám vào thì dùng vôi bôi vào
chúng mới chịu nhả ra hay khi chúng hút máu bụng no tròn mới hết bám.
Mười hai giờ chúng tôi dừng lại nghỉ năm phút. Chúng tôi còn
30 phút nữa để có mặt ở đỉnh núi. Hai chân để bước và leo, còn hai tay dùng để bám
vào các rể cây hay vin vào những mõm đá hoặc bấu vào ngay mặt đất để trườn mình
lên. Chúng tôi bảo nhau tăng tốc độ. Lúc này đội trưởng Tân đi giữa và tất cả
sát nhau tiến lên, vượt qua những cây ngả nằm chắn ngang lối đi. Vài phút sau
chúng tôi phát hiện sự hiện diện của toán thứ nhất do Lê Công Mừng và Cao Duy
Tuấn hướng dẫn. Tôi dùng còi liên lạc và được đáp lại. Sau đó hai toán nhập lại
để cùng bò lên đỉnh núi sau cuộc hội ý giữa tôi và bốn đội trưởng. Trên ba lô của
Mừng và Tuấn lủng lẳng nhiều cành phong lan tuyệt đẹp. Càng lúc chúng tôi càng
thấy rõ phía trên những ngọn cây là những mảng trời xanh, không còn những cây cổ
thụ và đã thấy những lối mòn ngang dọc. Chúng tôi biết sắp lên tới đỉnh. Đúng
như dự đoán, chúng tôi đặt chân lên đỉnh Langbian lúc 12 giờ 45 phút. Trễ mất
15 phút. Chúng tôi vừa vui vừa ngạc nhiên khi thấy các Trưởng Nguyễn Văn Võ, Lê
Thuần và Nguyễn Minh Hoàng đang đứng giữa đỉnh núi cười đón chúng tôi.
Đỉnh núi là một khoảnh đất
tròn bằng phẳng, đường kính độ mười
thước. Như đã giao ước, hai toán cùng sắp hàng ngang và trình diện một lúc. Các
Trưởng bắt tay trái từng thiếu sinh và ngỏ lời khen ngợi tất cả chúng tôi mặc dầu
lên trễ 15 phút. Phong lan được giao cho các Trưởng trước khi được lệnh nghỉ
ngơi để chuẩn bị bữa ăn trưa bằng thức ăn có sẵn là bánh tét, bánh chưng, bánh
mì và mứt kẹo…
Ăn uống xong chúng tôi đứng tụ lại với nhau để nhìn xuống núi
về hướng nam để thấy thành phố Đà Lạt mờ mờ ảo ảo dưới những đám mây. Chúng tôi
có cảm giác như đang bồng bềnh trên mây. Thật vậy! Chung quanh đỉnh núi toàn là
mây màu trắng chồng chất lên nhau bồng bềnh
lơ lửng. Những bản làng dưới chân núi cũng bị mây che khuất. Chung quanh chúng
tôi toàn là mây với mây. Lúc đó tuy chưa nhận thức được sự thiêng liêng của tạo
hóa như thế nào nhưng chúng tôi cũng cảm nhận được sự hùng vĩ của thiên nhiên,
của đất trời chung quanh chúng tôi. Con người đứng giữa đỉnh núi và lơ lửng giữa
trời và mây, nghĩ lại thấy chẳng khác nào chuyện trong cổ tích.
Vào lúc ba giờ chiều chúng tôi đươc lệnh rời đỉnh núi. Các
Trưởng đi trước và đoàn sinh theo sau. Chúng tôi phải dùng gậy để việc đi xuống
dốc được dễ dàng, nếu không sẽ bị trượt do không kiềm giữ được tốc độ xuống dốc.
Nửa giờ sau các Trưởng dừng lại trên một khoảng đất bằng . Chúng tôi thấy ba
chiếc lều cá nhân của các Trưởng đã dựng tự bao giờ.
Sinh hoạt buổi chiều là những trò chơi nhỏ và ca hát. Đặc biệt
có trò chơi nút dây và cứu thương như cấp cứu khi bị rắn hay bò cạp cắn trong rừng.
Chúng tôi được lệnh không được đi xa khỏi đất trại hai trăm mét ngoại trừ đi về hướng một khe nước trong chảy xuống từ một vách núi cách đất trại khoảng ba trăm
mét. Những cụm khói bay lên khi chúng tôi nhóm lửa nấu nướng cho bữa cơm chiều
với các món ăn cố hữu trong các kỳ trại là các món canh bắp cải nấu với tôm khô,
su su xào thịt heo và trứng vịt chiên. Có chuyện vui xảy ra khi đầu bếp của đội
Báo làm món trứng chiên. Chàng ta làm món trứng xong thì thấy trên mặt còn ướt
nên treo cái chảo trên một nhánh cây gần đấy, khi bày biện các món đã nấu xong
để chuẩn bị “đứng trước cơm canh giờ này…” thì chàng ta đi lấy chảo trứng. Đến
gốc cây, chàng chỉ thấy cái chảo còn trên nhánh cây, còn trứng thì đã bị một bầy
kiến đỏ bu ngập trên mặt đất. Hôm đó đội Báo chỉ có hai món ăn…
Màn đêm buông xuống. Ánh sáng từ những chiếc đèn bão lập lòe
trong màn sương đêm lạnh lẽo. Rồi cuộc vui bên lửa với những bài ca, vỡ kịch,
điệu múa, trò chơi của các đội luân phiên trình diễn. Những tiến a…a…a sau mỗi
màn trình diễn vang vọng vào núi rừng thâm u. Những ánh mắt rạng rỡ, những nụ cười hồn nhiên, trong sáng của chúng tôi và
những lời dặn dò của các Trưởng tưởng chừng như đang thị hiện đâu đây khi ngồi
viết những dòng chữ này.
Sau bữa ăn khuya bằng món chè đậu ngay bên vòng lửa, chúng
tôi hát bài “chúc ngủ” và lặng lẽ trở về lều. Các đội trưởng chia phiên gác cho
các em. Lúc mười giờ, tôi và các đội trưởng đội phó đi theo các Trưởng để họp
trên đỉnh núi. Phiên họp chỉ kéo dài trong ba mươi phút để kiểm điểm sinh hoạt
một ngày qua và chuẩn bị cho chương trình ngày mai. Chúng tôi lạnh dúm cả người,
co ro trong những chiếc áo ấm với bao tay và khăn quấn cổ nhưng hai hàm răng vẫn
cứ đánh bò cạp, da mặt se thắt lại, miệng thở ra đầy khói và bụng thì thót lại
vì cái lạnh đã đi vào thấu tới tim gan. Nếu đứng xa quá một thước thì chẳng ai
thấy ai…
Khi trở lại đất trại, các Trưởng và tôi đi một vòng để kiểm
soát việc canh gác của các em. Tay cầm gậy đứng co ro dưới gốc cây bên chiếc
đèn bão để quan sát chung quanh là hình ảnh của các Thiếu sinh Việt Nam gương mẫu
của hơn nửa thế kỷ trước.
Tôi vào lều nằm nghe sương rơi. Lá cây khua xào xạc bên ngoài
hòa cùng với tiếng gió rít từng cơn, tiếng côn trùng rả rích trong các lùm cây
hòa thành một tấu khúc rừng khuya kỳ diệu. Hơi đất lạnh và mùi lá cây ẩm mục
không cản được giấc ngủ của tôi sau một ngày làm việc cật lực.
Tiếng tù và từ lều các Trưởng đánh thức bình minh. Chúng tôi
bước ra khỏi lều trong màn sương dày đặc. Sau bài thể dục vận động do Trưởng Lê
Thuần hướng dẫn, chúng tôi vẫn còn thấy cái lạnh bám sát quanh mình. Sau khi ăn
sáng xong chúng tôi được lệnh nhổ lều để xuống núi theo con đường bậc cấp cách
đất trại không xa. Mỗi bậc cấp đều có đặt một khúc gỗ dài khoảng một thước. Các
Trưởng cho chúng tôi biết đây là con đường từ chân núi lên đến đỉnh Langbian có
1200 bậc cấp do Ty Công chánh Đàlạt thực hiện nhân chuyến viếng thăm Đà Lạt và
lên đỉnh núi Langbian của Tổng thống Ngô Đình Diệm vào mùa hè 1957. Theo con đường
bậc cấp này, chúng tôi xuống núi dễ dàng và nhanh. Chúng tôi về đến gần làng
Mang Linh vào lúc 10 giờ rưởi sáng. Mười một giờ bốn đội có một cuộc thi. Đó là
thi nấu cơm, không nấu thức ăn. Nấu cơm nhanh và ngon và tiêu chuẩn của cuộc
thi. Các Trưởng phát cho mỗi đội hai ký gạo và một hộp diêm trong đó chỉ có một
que diêm. Các đội chia nhau mỗi người một việc để “công cuộc” nấu cơm được tiến
hành ngay. Hoạt cảnh nấu cơm thật là vui. Các em chạy đi nhặt củi khô đem về
nhóm lửa. Trời gió và không khí ẩm ướt có thể làm cho việc nhóm bếp bị trở ngại.
Các đội dùng các tấm tent để che quanh các bếp dã chiến. Khi các em bê nồi gạo
xuống suối để vo và lấy nước thì các bếp lửa đã bùng cháy. May mà trời không có
mưa, nếu không, vừa gió vừa mưa thì một que diêm cũng khó mà có được bếp lửa.
Các em vừa dùng những nhánh củi khô vừa
cho thêm vào mớ lá khô còn ẩm nên các bếp bốc khói lên mù mịt. Nhiều em đứng
quanh bếp sụt sịt với nước mắt nước mũi. Gần cả tiếng đồng hồ sau bốn nồi cơm
được mang đến trình diện các Trưởng. Kết quả là cả bốn đội đều có nồi cơm cháy khét
vì các em đun quá nhiều lá sau khi cơm vừa mới cạn. Cả bốn đội đồng điểm thi
đua hạng chót. Các Trưởng yêu cầu cả đoàn ăn cơm chung thì các em nhìn nhau ngơ
ngác cười vì không có thức ăn. Tuy nhiên, khi các em và Trưởng đã đứng chung
quanh bốn nồi cơm khét thì Trưởng Nguyễn Minh Hoàng lấy từ ba lô của Trưởng ra
hai chai xì dầu hiệu “Con Mèo.” Mọi người đều ngạc nhiên và cười ầm lên. Chưa
bao giờ chúng tôi ăn một bữa cơm ngon và vui vẻ đến thế. Và như thông lệ, dưới
các đáy nồi không còn một mảng cơm cháy khét nào. Hai chai xì dầu cũng không
còn một giọt.
Đến hai giờ chiều chúng tôi họp đoàn gần ở mé làng Mang Linh.
Các Trưởng nhận xét về kỳ trại với những lời khen và không quên khuyên nhủ đoàn
sinh học hành cho giỏi, giúp đỡ cha mẹ và làm việc thiện mỗi ngày. Bài hát chia
tay vang cả một góc trời trước khi vào căn nhà sàn để lấy xe đạp rồi theo đường
cũ trở về thành phố vào chiều mồng bốn tết.
Hai tuần sau kỳ trại chúng tôi họp đoàn đầu năm, các Trưởng
cho biết là kỳ trại tết vừa qua không giống như những lần cắm trại khác như chúng
tôi đã được dặn là không làm thủ công trại như cổng chào, bàn ghế, bếp núc…Về ẩm
thực thì được yêu cầu mang theo thức ăn sẵn có như bánh tét, bánh chưng, kẹo,
bánh mứt…và chỉ mang gạo và thức ăn tươi cho một bữa ăn mà thôi.Trong buổi họp
đầu năm này cũng có mặt Trưởng Lê Xuân Đằng là Đạo trưởng với những lời chúc tết
và khen ngợi chúng tôi vì Thiếu đoàn Lê Lợi là đơn vị Hướng Đạo đầu tiên chinh
phục đỉnh Langbian.
Thiếu sinh là lứa tuổi hạnh phúc nhất trong sinh hoạt Hướng Đạo
mà tôi đã trải qua. Sau này khi được một số Trưởng và anh chị em Tráng sinh hỏi
tôi là kỳ trại nào là kỳ trại tôi có nhiều kỳ niệm nhất. Tôi đã đề cập đến kỳ trại
tết năm Canh Tý cũng là một trong những kỳ trại tôi không bao giờ quên. Kể về kỳ
trại này cũng để tưởng nhớ đến các Trưởng đáng kính của tôi là Trưởng Nguyễn
Văn Võ và Trưởng Lê Thuần. Trưởng Nguyễn Minh Hoàng hiện nay vẫn còn ở Đà Lạt.
Trương Lê Xuân Đằng cũng đã lìa rừng năm 2013 tại San Jose.
Về các Thiếu sinh Lê Lợi: Nguyễn Đức Quang đội Voi, sau là nhạc
sĩ Du ca, đã lìa rừng ngày 27 tháng 3 – 2011 tại California. Trần Hữu Tân và Lê
Công Mừng hiện ở California. Cao Duy Tuấn ở Việt Nam. Sau bảy lăm không còn biết
các bạn lưu lạc đâu!
Hôm 30 tháng 10- 2018 nhân ra mắt tập thơ Nguồn Thật tại San
Jose (26 tháng 10) tôi có ghé viếng mộ Trưởng Lê Xuân Đằng, sau đó ghé nhà thăm
bề trên của Trưởng. Chị đã 92 tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh và minh mẫn như ngày
nào. Tôi rất mừng! Hôm đó cũng gặp hầu như gần hết các người con của anh Đằng,
tôi cũng gặp em Nguyễn Hữu Tuệ là đoàn sinh cũ. Cũng cần nhắc lại là tất cả các
con của Trưởng Lê Xuân Đằng đều là Hướng Đạo, trong đó có em Lê Xuân Ái và Lê
Xuân Cường là đoàn sinh của tôi, em Ái đã lìa rừng.
Hạnh phúc biết bao được gặp lại người xưa và nhắc lại chuyện
cũ…
Viếng mộ phần Trưởng Lê Xuân Đằng. Trưởng Lê Quang Tuấn (con thứ
của Trưởng Lê Xuân Đằng) đứng bên phải.
Chị
Lê Xuân Đằng (92 tuổi). Vợ chồng em Nguyễn Hữu Tuệ
Phong
Châu
Tháng
tư - 2019
No comments:
Post a Comment