Ban Biên Tập: H K Châu, L N Hui, Ng L Hương, C Ng Cường, Ng C Lâm, Ng Đ Thắng, NTHương

Thursday, March 8, 2018

Linh mục JM Nguyễn Văn Thích và bài hát NGUỒN THẬT



     Linh mục JM Nguyễn Văn Thích tên rừng Bồ Câu Dũng Cảm từng làm Tổng Tuyên Úy cho Hướng Ðạo Sinh Toàn Quốc trong Phong trào Hướng đạo Việt Nam phát triển tại miền Bắc năm 1930 và sau đó phát triển ở miền Trung khoảng năm 1937. Năm 1941, Linh mục Nguyễn Văn Thích sinh hoạt với một Tráng đoàn tại Huế. Năm 1956, linh mục sáng tác bài bát Nguồn Thật tại trại hướng đạo Tùng Nguyên.



Anh em chúng ta chung một đường lên
Chung một đường lên đến nơi nguồn thật
Nguồn thật là đây sức sống vô biên
Sống vô biên là sống cùng tạo vật.


 Bài Hướng Ðạo Ca với những lời sau đây do cha Thích sáng tác:

         Hướng đạo nào phải không lo chi đời

         Ðời ta có mục đích

         Là ta lo việc ích

         Noi nghĩa ở Nhơn

         Mà chẳng trông ơn

         Ðời ta có mục đích

         Hướng đạo nào phải không lo chi đời.

Ðời sống hướng đạo gần gũi với thiên nhiên, với ngoại cảnh nên thường nâng tâm hồn con người lên.

                                      Linh mục JM Nguyễn Văn Thích với các sinh viên Đại Học Huế


Nhớ ngày mất Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (10/12/1978)


     
«Hiền nhân của thời đại» là danh hiệu mà các môn sinh của linh mục Giáo sư Nguyễn văn Thích đã kính cẩn gọi người Cha và người Thầy kiệt xuất của mình. Một danh hiệu mà chắc chắn là tất cả môn sinh của Ngài ở Việt Nam cũng như rải rác trên thế giới (hàng trăm nghìn người) đều đồng tình đồng ý hoan nghênh.




Chúng ta hãy tìm hiểu cuộc đời của hiền nhân bắt đầu từ:

CẬU ẤM NGUYỄN VĂN THÍCH

Chào đời ngày 22 tháng 9 năm 1891, là con thứ hai của cụ Lô Giang Tiểu Cao Nguyễn văn Mại, người làng Niêm Phò cũng là làng Kẻ Lừ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cụ Nguyễn văn Mại đỗ thủ khoa thi Hương, rồi Phó Bảng khoa Kỷ Sửu (l889) Thừa Thiên, được bổ dụng Tri Phủ An Nhơn (Bình Định), làm quan đến chức Thượng Thư. Cụ Thượng Mai đã từng làm Chánh chủ khảo các khoa thi Hương, thi Hội và Quản giáo môn Hán tự tại trường Quốc học. Cụ đã tháp tùng vua Khải Định qua Pháp với tư cách là một danh sĩ của Triều đình. Trước khi về hưu, Cụ được thăng tước Hiệp Tá Đại học sĩ.


Cụ bà là Thân Thị Vỹ (1862- l946), họ Thân Trọng, ở làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, một dòng họ danh tiếng với các bậc khoa bảng như Cụ Thân Trọng Huề, Thượng Thư dưới triều Đồng Khánh, Khải Định.

Từ 4 tuổi, cậu ấm Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán rồi lớn lên vác lều chõng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữ và chữ Pháp rồi vào trường Pèlerin gọi là «Trường Dòng» do các Sư huynh Lasan (Saint Jean Baptiste de La Salle) điều khiển và giảng dạy, ở Huế. Trường nầy được thành lập năm 1904 và học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các «Thầy Dòng» đã giúp học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng. Về sau, khi Thân phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ Đạo Công giáo thì cậu giải thích cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA của Đạo công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích trình bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc hay mặt trời chói lọi mà là một Ngôi vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái. Ngài là Thượng Đế sáng tạo nên vũ trụ, Đấng chí Mỹ, chí Thiện, chí Ái Quan trọng hơn nữa là Ngài sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài. Phải chăng Nho giáo cũng đã linh cảm điều đó khi khẳng định: «Nhân chi sơ tính bổn thiện», con người phải hướng về Đấng Thiện Hảo, phải sống cho hợp vơi Thiên Đạo, với Thiên Mệnh và Thiên Lý… Đạo Nhân của Nho giáo không xa đạo Ái của Tin Mừng với Tình yêu không ranh giới: Tứ hải giai huynh đệ.

Trong thời gian học tại Pèlerin, học sinh Thích lại có những liên hệ ngày càng mật thiết với linh mục Tuyên Úy Léculier hay Cố Lựu, nên đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa làm Người được thấu hiểu ngày càng thấm đậm trong tâm thức và trí tuệ của chàng thư sinh khao khát Chân, Thiện, Mỹ.

Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với đứa con một gia đình thâm nho như gia đình của cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản tí nào. Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ kính tổ tiên, ngăn cấm người công giáo thi hành nghi lễ nầy. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải vì trở nên công giáo sẽ bị xem là phản hiếu, là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất Thần Kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.

MỘT CUỘC ĐỔI ĐỜI QUYẾT LIỆT

Sau 3 năm suy tư, trở trăn và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao đẳng Tiểu học và một năm Sư phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 2-1911. Bốn tháng sau, ánh sáng Đức tin tỏ rạng trong tâm hồn thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Thành phố Nha Trang, đã ban phép Thanh Tẩy cho Thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria. Cụ Nguyễn Sen là ông Nội của Linh mục Nguyễn Hữu Phú, Dòng Chúa Cứu Thế làm Cha đỡ đầu. Đây là một bước ngoặt đổi đời quyết liệt như vị tân tòng Giuse Maria Thích đã ghi trong bài thơ sau:
Bỉ cực rồi thì đến thái lai,
Nỗi mừng nửa khóc nửa vui cười
Muôn vàn cảm đội công ơn Chúa,
Bao xiết cao lao phước phận tôi.

Mấy độ gian nan còn để dạ
Ba năm cầu nguyện đã như lời.
Thôi thôi đừng bạn cùng ta nữa,
Ôi sự công danh phú quý ôi!

Được tin sét đánh nầy, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu», như bà em Thiếu Hải thuật lại mấy chục năm về sau, ngày mừng lễ thất tuần «Anh Thích»:

Trong nhà dùi, gậy, ba toong,
Rút ra đánh hết, chẳng còn cái mô!
Chị em, ai nấy sững 
sờ,
Lính tráng, vú bõ, không ai rờ đến cơm…

Khi cơn «gia biến» dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha can thiệp làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài để con mình yên số phận, không còn gây thêm tai biến nữa. Nào ngờ đâu, khi được «hung tin» nầy, môn đệ của Đức Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc… Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến Tiểu chủng viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Một trường hợp chưa từng có: Muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, mà thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây? May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Giáo sư chủng viện lúc đó có linh mục Henri Denis còn gọi là Cố Thuận gửi thư về Pháp cho Mẹ để kể lại sự kiên nầy như sau:

Kính thăm Mẹ yêu quý,

Học trò con đã tề tựu rồi. Năm nay có một chủng sinh xuất sắc. Thường thì học sinh mới vào còn nhỏ tuổi, nhưng người nầy đã trên 26 tuổi. Đó là một giáo sư Pháp văn trường Trung học Nhà nước, đã xin từ chức để nhập chủng viện. Luật chung không cho phép nhận như thế vì vừa lớn tuổi vừa theo đạo mới được 6 năm. Nhưng Đức Giám mục đã thi hành một biệt lệ.

Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại chủng viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926.

THEO ANH, EM CŨNG ĐI TU

Ảnh hưởng của Linh mục Giuse Maria Thích trên gia đình ngấm ngầm chiếu tỏa. Em gái của Cha, pháp danh là Như Ngộ, học chữ Hán lúc 6 tuổi, 9 tuổi học chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, rồi làm trợ giáo ở Khánh Hòa cùng một trường với anh. Nhờ sự gần gũi và cảm phục gương sống của anh, cô được hiểu biết và mến Đạo Thiên Chúa. Sau khi Cha Thích đi tu, cô rời Khánh Hoà, ra dạy ở Hà Tĩnh rồi về gia đình nghỉ hè. Tiếng gọi thiêng liêng thúc bách, một hôm vào 11 giờ trưa, cô từ giã gia đình ra đi, chỉ mang theo một bộ áo quần, để lại một bức thư với tất cả nữ trang… Thật là đau đớn cho cha mẹ khi biết là con gái trưởng thành đã dứt khoát ra đi vào Dòng Cát Minh (Carmel) Kim Long, Huế. Mẹ Bề Trên Aimée de Marie, thừa sai Cát- Minh người Pháp, đã đón nhận ứng sinh từ nay mang tên là Agnès Nguyễn thị Ngọc. Cụ Bà Nguyễn văn Mại đến Nhà kín chửi mắng, bắt cô trở về gia đình, Cụ Ông cũng đến lôi con gái về nhưng cô tu sinh khóc to và nằm trì xuống đất, hai cụ thân sinh đều phải thối lui.

Ngày 29-9-1921, nữ tu Agnès Ngọc được mặc áo Dòng với tên Marie de l’Eucharistie. Nhà Dòng mời gia đình cụ Thượng Mại, thầy Thích, các em, các cháu, gia đình Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, các quan, linh mục, giáo dân đến tham dự. Nghi lễ tiến hành rất trọng thể, uy nghi, khiến Cụ ông và cụ Bà Nguyễn Văn Mại rất xúc động và mến phục chí khí của hai người con dũng cảm, đạo hạnh. Từ đó Hai Cụ có cảm tình với đạo Công giáo.

Mối xúc động của người anh Nguyễn Văn Thích đã được diễn tả trong hai bài thơ:

I
Cởi lốt trần gian vào Dòng Kín,
Tù nay sự thế thế là xong,
Lìa nhà chi quản muôn hàng lụy,
Thờ Chúa xin
 dâng trọn tấc lòng.
Nhẹ gót bước vào nơi tịch mạ
c,
Vui tình chôn lấp cái hình dong,
Bây giờ ngoảnh lại xem trần thế,
Một bước mà xa mấy vạn trùng.

II
Bên lầu rang rảng tiếng chuông vang,
Trên gối đêm xuân giấc lưới tan.
Bảng lảng mắt còn nhìn cõi tịnh,
Bơ vơ lòng những nghĩ thiên đường.
Quen mùi đạo đức quên mùi tục,
Thoát chữ công danh đặng chữ nhàn.
Mới biết một ngày trong phúc Kín,
Hơn trăm nghìn kiếp phúc trần gian. 

(Phú xuân chủng viện 29 tháng 9 năm 1921)

SỰ NGHIỆP CỦA HIỀN NHÂN NGUYỄN VĂN THÍCH: MỘT NHÀ GIÁO XUẤT CHÚNG

Linh mục Nguyễn văn Thích là một nhà giáo từ tuổi 20 và không ngừng say mê giảng dạy cho đến cuối đời, ngoài 80 tuổi:
  • Dạy các thiếu nhi Tiểu học ở Khánh Hòa rồi ở Huế (1911-1917).
  • Dạy các tu sĩ Dòng thánh Tâm Huế (1927-1933).
  • Dạy trường Providence Huế (1933-1937).
  • Dạy Tiểu chủng viện An Ninh, Quảng Trị (1937-1942).
  • Dạy Trung học Khải Định (1942-1946) đồng thời làm Tuyên úy trường Pèlerin.
Trong thời gian làm Cha xứ họ Đạo Kim Long, Huế (1950-1958), Cha dạy trường Quốc học và các trường Tư thục Công giáo Huế (1950-1958).

Từ 1958, Cha dạy sinh viên Đại học Đàlạt, Huế, Sàigòn, dạy Hán văn; và từ năm 1959, dạy Triết Đông tại viện Hán học, Huế. Hán văn và triết Đông là 2 môn khô khan nhưng ngài có biệt tài sư phạm: mỗi lần vào lớp với sinh viên cũng như các em thiếu niên, ngài luôn xen kẽ những bài hát vui tươi, lành mạnh. Dù đang giảng về triết lý Khổng Mạnh, qua sách Đại Học hay Trung Dung, ngài không quên giải trí sinh viên với các bài thơ hay bài hát chính ngài sáng tác, sinh động và ý nghĩa. Sinh viên của Ngài còn nhớ là ngay cả khi Linh mục lão thành ngoài 80 tuổi, lớp học của ngài vẫn sôi động như thời ngài còn trẻ.

Dạy cho các cháu nhi đồng: năm 1963, Cha mở một Nhà Trẻ (có lẽ là nhà trẻ đầu tiên ở Việt Nam) tên là Hương Linh trong khuôn viên trường Bình Linh (Pèlerin) cho các cháu ấu nhi không phân biệt lương giáo. Cha đào tạo giáo viên theo phương pháp hướng đạo vui tươi. Chính cha thảo ra chương trình giáo dục, thời biểu, dạy hát, dạy chơi vì «học là chơi, chơi là học». Các cháu học những điệu múa dân gian, những bài ca dao đậm tình quê hương, kể cả các bài hát tiếng Pháp đơn giản và sinh động. Cha sáng tác bài thơ và phổ nhạc «Cái nhà là nhà của ta» cho các cháu, bài nầy được rất nhiều người ưa chuộng và phổ biến.

Một điều đáng chú ý và đáng mừng là Nhà giáo Nguyễn văn Thích rất quan tâm đến giáo dục thanh thiếu nữ. Ngay từ năm 1916, ngày khai giảng trường Nữ học Khánh Hòa, ngài đã làm bài thơ sau đây để cô Như Ngọc em Ngài đọc:

Nữ giới mừng cho gặp hội nầy,
Văn minh khởi điểm cũng từ đây.
Năm châu thế giới chung tai mắt,
Một thuở giang sơn mở mặt mày.
Thêu dệt sao cho vinh nước tổ,
Bút nghiên chi để kém đoàn trai…

MỘT NHÀ THƠ, MỘT NHÀ BÁO LỖI LẠC

Các bài thơ của Linh mục Nguyễn văn Thích sáng tác được phổ biến trong «Sảng Đình thi tập» gồm thơ Việt văn, Hán văn, Pháp văn, tổng cộng 152 bài: những bài thơ đa dạng, từ những câu vè 4 chữ, câu thơ lục bát, tứ tuyệt, thơ Đường đến những bài thánh ca hay thánh thi ca tụng Đức Mẹ, ra đời trước Hàn Mạc Tử 30 năm, như lời chúc Đức Mẹ La Vang, cảm hứng từ những thánh ca tiếng la-tinh nhưng với tâm tình của người môn đệ Việt Nam quyết hiến dâng cuộc đời trọn vẹn cho Chúa Giêsu.

Cầu cùng Đức Mẹ:
Quỳ gối cầu xin Mẹ Chúa Trời,
Lắng tai nghe trẻ một đôi lời:
Giữ gìn vàng ngọc cho trọn vẹn,
Vun vén xuân xanh được tốt tươi…
Rất Thánh Đồng Trinh Mẹ Chúa Trời,
Nguồn ân bể ái tát không vơi…

Chúc tụng Mẹ Maria:

Rất Thánh Đồng Trinh Mẹ Chúa trời,
Nguồn ân bể ái tát không v
ơi,
Thơm thay mùi huệ nơi thanh vắng,
Tốt b
ấy hoa hường chốn gốc gai.
Nhựt nguyệt hai vừng nhường ánh sáng,
Thiều quang chín chục kém màu tươi.
Lưỡi nào kể xiết lời khen ngợi,
Rất Thánh Đồng Trinh Mẹ Chúa Trời. 

(Huế 1911)

Trong rất nhiều áng thơ chữ Hán, có bài «Quy y Thánh Giáo Thập tự» gồm 2 đoạn nhật tụng và 10 đoạn tứ tuyệt (1939) giới thiệu cho nhà Nho muốn hiểu biết Đạo Thiên Chúa. Cha gửi tặng cụ Phan Bội Châu một bản. Cụ rất vui mừng và cất gối đầu giường.

Thơ Cha dịch tiếng Pháp cũng nhiều, như thơ của Victor Hugo, Jean Aicard, Sully Prud’homme, Chateaubriand, Claude Augé, Thánh Têrêxa Avila, Thánh Têrêxa Nhỏ, v.v… Nổi tiếng là vở kịch Polyeucte của thi hào Pháp Corneille, «Tuồng Phổ Liệt» được trình diễn nhiều lần ở Chủng viện An Ninh.

Ngài là người sáng lập báo «Vì Chúa» ra đời từ 1936 (giá 4 xu/số) là một tuần báo tam ngữ Việt-Hán-Pháp được nhiều nhà trí thức cộng tác như cụ Ưng Trình, cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn… Mừng một năm báo nầy ra đời, Cụ Phan Bội Châu tặng cha Thích bài thơ:

Lòng ta vì Chúa, Chúa vì ta,
Rước Thánh Thần về, đuổi quỷ ma,
Đường lối quang minh lên tột đỉnh,
Ai rằng Thiên Quốc ở đâu xa!

Ngoài báo «Vì Chúa», Ngài cộng tác với báo «Nguồn Sống», tạp chí Đại học Huế hay «Cổ học Quí san», v.v…

NHÀ HỌA SĨ VÀ NHẠC SĨ THỜI DANH

Cha Thích có biệt tài về cổ họa, trong báo «Vì Chúa» được in lại trong Sảng Đình thi tập như bức «Thác lớn Bạch Mã» rất tinh vi điêu luyện, bức tự họa «Trầm ngâm chiếc bóng dựa bên tường», những bức tranh Mẹ Ma ria như «Đức Từ Mẫu» hiện trưng bày ở Tòa Giám mục Huế, bức chân dung thánh Gioan Vianê, Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.

Với năng khiếu hội họa, ngài viết những câu đối chữ Hán với nét bút tài hoa hiếm có.

Về âm nhạc, linh mục Nguyễn văn Thích sử dụng thành thạo các nhạc khí dân tộc như đàn nhị, đàn cò, đàn nguyệt, đàn bầu, đàn tì bà… kể cả các nhạc cụ Tây phương.

Trong các bài thánh ca, một trong những bài nổi danh là bài Magnificat Việt ngữ (hiện nay vẫn còn được hát trong các giờ kinh phụng vụ. Không thể kể hết nơi đây những bài rất ý nhị như bài hát «Đồng lúa chín», «Câu hát Đức Mẹ ru con», «Trời cao đất thấp gặp nhau», v.v… vừa chất chứa tình cảm thiêng liêng, vừa đậm đà cung điệu và thanh âm của những câu hò hay ca trù dân tộc.

LINH MỤC TUYÊN ÚY HƯỚNG ĐẠO TOÀN QUỐC

Từ 1941, Linh mục Nguyễn văn Thích sinh hoạt với một trung đoàn ở Huế, và năm 1949, Giáo quyền địa phận Huế bổ nhiệm Ngài làm Tuyên úy Hướng đạo công giáo Huế, rồi vào năm 1953, ngài là đại diện Giáo quyền làm Tổng Tuyên úy toàn quốc. Ở vị trí nầy, nhờ tính tình Cha vừa linh hoạt vừa khoan dung, Cha giải quyết rất khôn ngoan những gay cấn trong Đại hội đồng hướng đạo. Cha đóng vai trò cố vấn tích cực và nhẹ nhàng giữa nhiều khuynh hướng khác nhau của các Huynh trưởng và Tuyên Úy 3 miền Bắc Trung Nam.

Với trái tim cởi mở và yêu thương tuổi trẻ, Cha sáng tác những bài hát huy động và khích lệ thanh niên, tập sống có «phẩm chất thanh cao như cây Tùng; cây Bách, dù phong ba bão táp vẫn vươn thẳng lên trời cao».

MỘT TÂM HỒN NGHÈO KHÓ, MỘT TRÁI TIM CHỈ BIẾT YÊU THƯƠNG

Linh mục Nguyễn văn Thích làm giáo sư lâu năm, dạy Đại Học nhiều giờ và nhiều nơi, ắt hẳn lương rất cao, nhưng Ngài không giữ lại chút gì cho mình, khi nhắm mắt ra đi chỉ còn lại vài bộ áo đã sờn cũ. Bất cứ ai nghèo khổ đến với Ngài đều được tận tình giúp đỡ, không từ chối một ai. Viện Dục Anh nuôi trẻ mồ côi ở Huế luôn được Cha quan tâm và trao nhiều tiền bạc cho các nữ tu phụ trách. Là Tuyên úy Pèlerin và cả viện Bài lao, Cha thường đến bệnh viện dâng Thánh Lễ, luôn đem tiền, quà đến cho bệnh nhân.

Bao nhiêu năm làm giáo sư, cha vẫn đi một chiếc xe đạp duy nhất dù có qua cầu Tràng Tiền đầy xe cộ hay lên dốc Thiên An lởm chởm. Tại đại chủng viện Kim Long, một hôm cha đạp xe đạp đến dạy, tình cờ bắt gặp một người đàn ông áo quần xơ xác đang chặt trộm buồng chuối của Chủng viện. Thấy cha, ông ấy hốt hoảng toan bỏ chạy. Cha ôn tồn gọi người đó lại, móc túi đưa thêm ít tiền rồi nói: «Bác có muốn ăn chuối non nầy thì phải thêm cái gì để nấu chứ. Bác cầm lấy chút tiền nầy mua tôm tép gì thêm cho dễ ăn». Vừa nói Cha vừa đưa tiền rồi đi vào dạy học.

Một chuyện có thực mà được xem như huyền thoại hiếm có làm rung động TP Huế: năm 1950 xảy ra tại một hội chợ từ thiện do một bác sĩ đứng đầu tổ chức, với sự cộng tác của linh mục Nguyễn văn Thích. Trong hội chợ, giữa mấy gian hàng bày trò chơi lại có một sòng bạc thu hút nhiều khách. Nhận thấy mối nguy hiểm của sòng bạc nầy, Cha Thích phản đối: «Cờ bạc không thể đi đôi với việc từ thiện». Trưởng ban tổ chức không chịu nghe, Cha liền lấy micro khuyến cáo dẹp sòng bạc đó. Bác sĩ tổ chức giật micro trong tay Cha. Trong lúc giằng co, bác sĩ tát cha vào má. Hồn nhiên và khiêm tốn, Cha liền đưa má kia và nói: «Còn má nầy nữa xin ngài hãy đánh cho đỡ giận». Mọi người vây quanh đều sửng sốt ngỡ ngàng. Có người đã thốt lên: «Phải là một đấng thánh mới làm được như vậy!»

TẤT CẢ VÌ CHÚA

«Vì Chúa» không phải chỉ là tên tờ tuần báo nổi danh xứ Huế mà chính là châm ngôn cuộc sống của Cha, với tôn chỉ: .

Suy tư vì Chúa
Ngôn luận vì Chúa
Hành động vì Chúa
Vì Chúa ta gắng công,
Ta thẳng lên vì Chúa!

(Số 1, ngày 18/9/1936).

ĐẤNG MỸ NHÂN CỦA LÒNG TÔI

Trong bài «Một buổi sáng sớm» đăng trong «Vì Chúa» số 5, 1936, tác giả tự thuật về chính mình là chàng thanh niên mỗi sáng sớm ôm sách, xách nón đi bộ đến nhà thờ Gia Hội dự Thánh lễ và rước Thánh Thể. Đến văn phòng làm việc, thấy anh vui tươi, người bạn hỏi anh đã gặp mỹ nhân nào mà vui thế? Anh mỉm cười không trả lời nhưng thầm nói: «Phải, tôi đã tìm được một Đấng Mỹ Nhân, Đấng lòng tôi yêu mến mà không có một thế lực nào trên trời hay dưới đất có thể phân ly. Sớm nay, tôi đã rước Đấng Mỹ Nhân ấy vào lòng tôi.

VĨNH BIỆT HIỀN NHÂN

Ngày 10 tháng 12 năm 1978, linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích với tuổi hạc 87, giã từ trần thế để về cõi trường sinh, hội ngộ cùng Đấng Chân-Thiện-Mỹ mà linh mục đã hiến thân phục vụ đến trọn đời, trọn tình và trọn nghĩa, với tầm vóc cao siêu hiếm có… Phút lâm chung, Ngài còn vui vẻ hát ca. Chắc hẳn là những ngày, những giây phút chuẩn bị cuộc ra đi, Ngài đã ngắm nhìn bức tranh Đức Maria mà chính tay Ngài đã kính cẩn họa ra với lời ca Ngài đã sáng tác:

Bao giờ tôi được lên Trời,
Ở cùng Đức Mẹ thì tôi phỉ nguyền.

Giáo hội Việt Nam và đất nước Việt Nam đã dâng lên Thiên Chúa một người con chí hiếu, một linh mục gương mẫu, một nhân tài sáng giá, một hiền nhân. Phải chăng Ngài là tổng hợp của tinh hoa Văn hóa Nho giáo hòa quyện với Hồng ân dạt dào của Thiên Chúa Tình yêu.

Nữ Tu Mai Thành, Dòng Đức Bà

-------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo và trích dẫn
  • Sưu tập Thơ-Văn, Nhạc-Họa của Linh mục Sảng Đình Nguyễn văn Thích, của tác giả LÊ NGỌC BÍCH
  • Sảng Đình thi tập của J. M. Thích, của tác giả: ĐOÀN KHOÁC.
  • Tưởng niệm Linh mục Giáo sư Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, Lễ giỗ 19 năm (1979-1998).
  • Tưởng nhớ Linh mục Giáo sư Sảng Đình Nguyễn văn Thích, Nhân kỷ niệm 21 năm mất của Người (1978- l999), của NGUYỄN LÝ TƯỞNG, Báo Hiệp Nhất số 81, năm 1999.
Xin hết lòng cảm tạ các tác giả đã dày công nghiên cứu và sưu tầm để hoàn thành các tác phẩm trên.
Tác giả bài viết: Nữ Tu Mai Thành



ĐÔI DÒNG TƯỞNG NHỚ 
Sáo Dễ Thương

Ông cụ đã trên 70 tuổi đội mũ cha cố, giày đen tất trắng, chiếc áo chùng thâm bao che toàn thân cao lều khều cũng không che dấu được thân mình gầy còm của ông cụ.
Cụ kiên nhẫn lê từng bước trên lề bộ hành của cầu Trường Tiền. Trưa hè gió lộng tưởng chừng có thể hất ông xuống giòng Hương giang… Nhiều người qua đường ái ngại dừng xe lại, mời gọi:
– Cha lên xe con chở đi.
– Không hề chi, không hề chi. Để ta đi bộ cho khỏe.
Vừa nói ông vừa đưa tay khoát lia lịa. Người khách đi đường có thể là 1 sinh viên, 1 hướng đạo sinh, một viên chức… lắc đầu chịu thua. Mọi người đã quen với hình ảnh vị cha già, khuôn mặt thánh thiện thường thả bộ từ hữu ngạn sông Hương sang tả ngạn vào Thành Nội để dạy học ở Viện Hán học rồi quay về giảng ở Đại học Văn khoa, Đại học Sư phạm Huế. Dạy xong cụ lại bách bộ trên đường Lê Lợi, qua Bệnh viện Huế, Tòa Hành chánh Tỉnh, trường Đồng Khánh rồi Quốc học, Luật khoa, Tòa Viện trưởng đến trường Pellerin, nơi có 2 lớp mẫu giáo được ông cụ đỡ đầu. Ông cụ này là LM Nguyễn Văn Thích mà dân Huế thường gọi ngắn gọn một cách thân thương “Cha Thích”. HĐ còn thêm cho Ngài cái tên “Cụ Nguồn Thật” để ca ngợi vị Tổng Tuyên úy HĐCGVN đã có công sáng tác bản nhạc “Nguồn Thật” bất hủ, hát được mọi lúc mọi nơi.
Cụ Bồ câu rừng Gan dạ Nguyễn Văn Thích lìa rừng tính đến nay đã trên 30 năm nhưng nay mỗi khi cất vang tiếng hát những bài ca HĐ ngắn gọn mà đầy ý nghĩa của cụ như bài “Cái nhà, Nguồn Thật, Cầm tay, Chim bay…” thì hình dáng giản dị thân thương của cụ lại gợi nhớ những ngày xưa thân ái. Chúng tôi xin ghi lại đôi nét về cuộc đời kỳ lạ của một nho sinh xuất thân từ cửa Khổng sân Trình lại trở thành một linh mục.
Gia đình: sinh ra và lớn lên trong một danh gia vọng tộc. Thân phụ là cụ Nguyễn Văn Mại làm quan triều Nguyễn với các chức vụ Thị Lang bộ Học, Tuần Vũ Quảng Trị, trước khi về hưu được thăng chức Tổng Đốc hàm Thượng thư, tước vị là Thái Tử Thiếu Bảo, Hiệp Tá Đại học sĩ. Thân mẫu là cụ bà Thân thị Vỹ người làng Nguyệt Biều nổi tiếng với vọng tộc Thân trọng.
Ở Huế thời bấy giờ trong dân gian có câu:
Nguyễn khoa đại gia
Thân trọng không nhà
Hà thúc không dân
Ý nói họ Nguyễn khoa có nhiều người thành đạt làm quan lớn, họ Thân trọng đều làm quan ở nhà của Nhà nước, còn họ Hà thúc đều làm quan nên chẳng có ai là thường dân cả.
Khi thi đỗ Phó bảng cụ Mại được triều đình Huế bổ nhậm làm Tri Phủ An Nhơn, Bình Định, cụ rời nguyên quán là làng Niêm Phò, Quảng Điền, Thừa Thiên để vào An Nhơn trấn nhậm. Ngày 22.9.1891 cụ bà sinh hạ người con thứ 2, đặt tên là Nguyễn Hy Thích (Cụ Thượng Mại có mấy chục người con, trong số đó có nhiều con trai, nhiều người sinh hoạt HĐ, nổi tiếng nhất là người con thứ 13 – Trưởng Nguyễn Hy Đơn. Tr Đơn là một giáo học uyên thâm của Nha Học Chánh Trung Việt, đã được Tôn Nhơn Phủ mời làm thầy giáo dạy riêng cho Thái tử Bảo Long.
Về HĐ là bậc thầy của các Trưởng tiên khởi ở miền Trung như Tôn Thất Dương Vân, Nguyễn Thúc Toản, Tôn Thất Đông, Nguyễn Tấn Đức, Nguyễn Hòe. Tr Đơn dự trại Bạch Mã đầu tiên năm 1937 do DCC Raymond Schlemmer làm Trại Trưởng kiêm Khóa Trưởng. Tr Đơn rất tài hoa, đặc biệt là về thư họa, trong sổ khóa của kỳ trại Bạch mã 1937 Trưởng đã phác thật linh động, mô tả cảnh sinh hoạt của trại, dưới mỗi bức họa lại ghi chú bằng những câu thơ quen thuộc của ca dao tục ngữ hay thi ca Việt Nam.
Dưới bức ảnh LM Georges Lefas đang hì hục chặt tre đem về làm thủ công trại, ghi:
“Chém tre đẳng gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai”.
Dưới bức họa mô tả cảnh các khóa sinh đang làm cầu trên dòng suối Hoàng Yến nằm vắt ngang giữa Trại trường ghi:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ, suối ghềnh bắc ngang.
Tiếc thay Tr Hy Đơn ra đi quá sớm. Không rõ vì sao Tr Nguyễn Thúc Toản có được cuốn sổ khóa quí giá này. Năm 2003 cụ Báo Nghiêm chỉnh lìa rừng, bây giờ không biết cuốn sổ này lưu lạc nơi đâu. Xin xem thêm bài của Tr Trần Văn Hồng viết về Tr Hy Đơn có đăng trong số này).
Trở lại chuyện LM Nguyễn Văn Thích: năm lên 4 tuổi đã học chữ Hán do thân phụ dạy nhưng sau đó lại ra Huế học tại trường Pellerin. Năm 1910 đậu Cao Đẳng Tiểu học và học 1 năm sư phạm.
Năm 1911 theo thân phụ vào Nha Trang và làm trợ giáo ở trường Tiểu học của Tỉnh lỵ.
Ngày 29.6.1911 chịu phép rửa tội theo đạo Công giáo mặc dù gia đình phản đối kịch liệt.
Năm 1917 nghỉ dạy để ra Quảng Trị xin vào học ở Tiểu chủng viện An Ninh. Sự kiện nầy như một cơn địa chấn trong dòng tộc, trước đó cụ thân sinh đã nhốt ông trong phòng, ông đã dỡ mái ngói để thoát ra và hóa trang thành con gái để ra Quảng Trị. Ban đầu tu viện không nhận vì ông đã 26 tuổi, mới thành Ki tô hữu có 6 năm nhưng sau thấy ông quá mộ đạo nên Giám mục Allis đặc cách cho vào chủng viện. Sau 2 năm thì chuyển vào Đại chủng viện ở Phú Xuân (Huế).
Ngày 18.12.1926 tại nhà thờ Phủ Cam thầy sáu Giuse Maria Nguyễn Văn Thích được thụ phong Linh mục (lúc 35 tuổi). Lần lượt Cha được bổ nhiệm giữ các chức vụ sau: giáo sư Dòng Thánh Tâm, giáo sư trường trung học Providence, trường Pellerin, cha sở Xuân Long, giáo sư trung học Khải Định (Quốc học Huế), giáo sư các trường Đại học Huế, SàiGòn, ĐàLạt và Viện Hán học Huế.
Năm 1956 được bầu làm Chủ tịch Hội đồng văn hóa Thừa Thiên Huế.
Mọi người ghi nhận cha Thích có những phẩm chất đáng quý: lòng từ thiện bao la. Cha Thích là vị giáo sư thâm niên lại dạy nhiều giờ nên lương rất cao nhưng cuối tháng đôi lúc phải vào ăn nhờ ở trường Pellerin vì tiền lương ông đã đem phân phát cho viện cô nhi, viện bài lao, trường mẫu giáo Hương Linh (do ông sáng lập). Các học sinh, sinh viên nghèo thường đến xin tiền và cha không từ chối một ai. Mỗi sáng Chúa nhật, Cha thường đến các công viên tặng quà, tập hát và múa cho các sói con.
Chuyện kể: khi làm cha sở ở Kim Long, có 1 người vào vườn nhà thờ trộm 1 quày chuối non, thấy cha người ấy hoảng hốt định bỏ chạy, cha gọi lại ôn tồn bảo: – “Ăn trộm là điều không tốt, nhưng chắc anh túng quá nên phải làm càn. Lần sau, nếu cần anh cứ vào xin tử tế. Quày chuối này còn non chát lắm, ta cho anh chút tiền về mua ít tôm, tép gì đó nấu với chuối mới ăn được”.
Nhà văn hóa: cụ dạy quốc văn tại các trường trung học, Hán văn và Triết Đông tại các trường Đại học. Sáng lập và là cây bút chính của tờ báo “Vì Chúa”, viết rất nhiều bài bằng Pháp ngữ và Việt ngữ đăng trong các báo với bút hiệu: Jont.
Cụ còn là 1 nhạc sĩ với những bài hát ngắn gọn dành cho thanh thiếu nhi, nổi tiếng nhất là bài Nguồn Thật và bài Cái nhà của ta. Cha cũng là 1 nhạc công tài hoa chơi được đàn violon, harmonica, đàn nhị, đàn bầu, đàn tranh. Cha cũng đã xuất bản cuốn “Sảng Đình thi tập”, lời thơ lúc thì mộc mạc chân quê, lúc thì tràn ngập triết lý Đông Tây kim cổ.
Trước sau cha Nguyễn Văn Thích là 1 tu sĩ thánh thiện, với tinh thần Nho giáo kết hợp hài hòa với Kitô giáo. Một nghệ sĩ tài hoa với văn thơ thi họa, vừa mộc mạc chân quê, vừa đậm màu triết lý.

Đời Hướng Đạo:
Khác với cuộc đời tu sĩ đầy sóng gió và gay cấn, đời HĐ của Cha Thích êm đềm xiết bao.
Từ những năm 1936-1937 khi làm tuyên úy và giáo sư tại trường Trung học Providence, cha Thích đã sinh hoạt với các trưởng HĐ trẻ dạy ở trường này như cha Georges Lefas, Langrand, Tạ Quang Bửu.
Năm 1941 HĐVN mở trại họp bạn toàn quốc tại đồi Quảng Tế, Huế do Tr Tạ Quang Bửu DCC Tráng + Thiếu làm Trại Trưởng. Cha Nguyễn Văn Thích trong bộ đồng phục Tráng sinh đã tập cho các Tráng sinh bài ca Hướng Đạo trong đó có các câu:
…HĐ nào phải chỉ không lo chi đời
Đời ta có mục đích là ta lo việc ích
… Hướng Đạo nào phải sức yếu gan hèn
Đường ta tuy nặng gánh mà không bao giờ tránh.
Mắt đoái giang sơn, lòng phải gắng hơn.
Hướng Đạo nào thở vắn than dài
(mà phải) Xướng hát nghêu ngao cười với gian lao.
Năm 1942 Cha Thích được chuyển làm Tuyên úy và giáo sư trường Pellerin thì ở đây đã có đoàn HĐ Pellerin rồi. Lúc đó Cha đã 51 tuổi nhưng hòa mình tích cực với đoàn này. Thiếu Trưởng là một giáo sư trẻ tuổi người Việt (Tr Trần Trọng Sanh (hiện còn sống), thân phụ của Tr Trần Trọng An Sơn (Sư tử Kiêu hùng) và Sư huynh Trần Trọng An Phong (Nai Nhớ nguồn).
Năm 1949 Cha Thích được bầu làm Tổng Tuyên úy HĐCG tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1953 họp đại hội tại nhà thờ thánh Vinh Sơn (Hà Nội) cha được bầu vào Ban Tuyên úy CG toàn quốc.
Năm 1953 đại hội huynh trưởng HĐ toàn quốc họp tại Tùng Nguyên ĐàLạt dưới dạng 1 trại họp bạn do Tr Gà Hùng biện làm Trại Trưởng, cha Thích được bầu giữ chức Tổng Tuyên úy HĐCG VN thay thế LM Georges Lefas mãn nhiệm.
Năm 1956 Cha dự Trại Tùng Nguyên và giữa khung cảnh bao la hùng vĩ của tạo vật, Cha đã sáng tác bài ca của mọi thời đại, bài “Nguồn Thật”.
Từ đó về sau, dù tuổi đã cao, Cha vẫn đều đặn dự Trại trường, đêm đêm cùng dự lửa trại và thỉnh thoảng xin tháp tùng theo các toán thám du. Rồi sau 1 ngày băng rừng vượt suối để đi vào một Bản Thượng và tối hôm đó có thú rừng mới xuất hiện là Bồ Câu Rừng Gan dạ.
Đặc biệt năm 1959 Cha đã cùng 7 huynh trưởng khác dẫn 50 Thiếu sinh HĐVN dự Trại họp bạn HĐ Châu Á-Thái Bình Dương tại Makiling, Phillipines. Hình ảnh đẹp là LM mặc áo trắng say sưa đánh nhịp hát vang.
Đèo cao – Dô ta
Thì mặc đèo cao.
Nhưng lòng yêu nước.
Còn cao hơn đèo.
Những ngày trại sau đó hễ thấy HĐ áo nâu thì họ vui vẻ chào: “Dô ta Việt Nam”.
Năm 1966 khi dự lễ sinh nhật BP tại Lửa Hồng (Huế) Cha ngồi cạnh Đại Đức Châu Toàn, chuyện trò vui vẻ lắm. Để giúp vui Cha vừa hát vừa múa một bài ngắn, tôi chỉ còn nhớ đoạn sau:
…Ăn cơm Chúa, múa tối ngày.
Múa thật hay, múa vì a a Chúa.
Tiếng A A A vang dội để tán thưởng. Chờ cho dứt tiếng, Cha nói: Chúa đây là vua chúa chứ không phải Đức Chúa Trời.
Buổi trưa các trưởng dùng cơm tại chỗ do phu nhân các Tr Tôn Thất Đông, Lê Cảnh Đạm, Lê Viêm… nấu nướng; mỗi người 1 dĩa cơm phủ đầy thịt ba chỉ, tôm chấy, dưa leo thái mỏng bóp thấu trông thật hấp dẫn nhưng Cha Thích đã đến ngồi vào bàn cơm chay nói với Đại Đức Châu Toàn: “Ngài sớt cho tôi một chén”.
Tính cách thân ái, giản dị của Cha đã làm mọi người quí mến.
Đại Hội Đồng năm 1972 lúc đó Bồ Câu Rừng tuy vẫn còn “gan dạ” nhưng thấy sức khỏe đã sút giảm nên xin từ nhiệm trách vụ Tổng Tuyên úy để về hưu dưỡng ở Huế và rồi bảy năm sau người dân rừng già nhất của Rừng HĐVN đã lìa rừng trong một ngày lạnh ở Huế (10.12.1979) thọ 88 tuổi.
Xin trích 4 câu thơ của cụ trong Sảng Đình thi tập để kết thúc bài này:
Thôi thôi đừng nghĩ việc đời
Mây tan phú quí, sóng đời vinh hoa.
Muôn vàn điều việc chóng qua

Đời là cảnh tạm, người là phù du.

No comments:

Post a Comment