Ban Biên Tập: H K Châu, L N Hui, Ng L Hương, C Ng Cường, Ng C Lâm, Ng Đ Thắng, NTHương

Sunday, July 30, 2017

NỬA ĐỜI CHINH CHIẾN

  
NỬA ĐỜI CHINH CHIẾN
TRẦN NGỌC TOÀN

Lời mở đầu: Năm nay, tôi đã 77 tuổi đời. Quay nhìn lại đoạn đường đã qua, tôi đã tự thống kê với 15 năm đi lính, tất nhiên là lính Việt Nam Cộng Hòa, gần 9 năm tù cộng sản và hơn 20 năm làm việc lao động cho một Xưởng In nhật báo The Washington Post nhờ vượt biên ngay sau khi ra khỏi Trại Tù vào tháng 3 năm 1984. Khi còn đi làm việc, do phẫn uất trong lòng, tôi cố gói ghém thời gian để tự thực hiện 3 tập Truyện ngắn từ năm 1990 với bút ký “Vào Nơi Gió Cát” và 2 tập truyện ngắn “Vết thương Việt Nam” và “Chiến Tranh và Tình Yêu”. Bên ngoài, tôi thấy xuất hiện khá nhiều Hồi Ký của một số Tướng lãnh và viên chức của thời Việt Nam Cộng Hòa. Tôi chẳng thấy thích thú gì khi đọc những trang giấy chạy tội, không trung thực chỉ nhằm bám víu vào những hư không để cố khỏa lấp câu chưởi thậm tệ của cố Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson là “Một bè lũ ác ôn côn đồ”. Thế hệ của chúng tôi lớn lên tại Miền Nam Việt Nam trong một chế độ độc lập và dân chủ đầu tiên, sau ngày Thực dân Pháp rút lui và nền quân chủ của Nhà Nguyễn cáo chung. Như nhà văn Trần Hoài Thư đã viết: “Viết về một người cùng thế hệ, cùng nhịp suy nghĩ, cùng con tim rực lửa, và cùng những ngổn ngang trên vai, mà thế hệ chúng ta đã bị gánh, bị chịu đựng, bị lợi dụng... thì thật là một điều hạnh phúc. Nhất là đối với những người có kinh nghiệm máu và nước mắt như... Hơn thế nũa, có lẽ khác với những người sĩ quan khác, anh đã dành thì giờ viết cho bạn bè, đồng đội hơn là bản thân anh...”

Nhìn thấy thế hệ con cháu của mình lớn lên vô tư ở ngoại quốc, tôi bỗng thấy thích kể chuyện về quảng đời 15 năm quân ngũ để chúng đừng quên số phận của khoảng 300 ngàn chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản bảo vệ Miền Nam Việt Nam và cả hàng trăm ngàn Thương và Phế binh còn lây lất. Chính nhờ họ chúng mới có được một tương lai tốt đẹp như ngày nay. Hơn thế nữa, tôi có tham vọng muốn chứng minh cái gọi là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam mới chính là Quân Ngụy.

Trần Ngọc Toàn,
Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ4 Thủy Quân Lục Chiến-QLVNCH








Thiếu úy non choẹt

Tôi tốt nghiệp ra trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1962, đúng 22 tuổi đời. Tổng thống Ngô Đình Diệm lên chấp chánh đã cải tổ trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, nguyên là L'Ecole des Inter-Armes của quân đội Liên hiệp Pháp tại Đà Lạt, thành trường Võ Bị Quốc Gia theo khuôn mẫu của trường West Point Hoa Kỳ. Cơ sở được xây dựng trên ngọn đồi 1515 về phía Tây của thành phố Đà Lạt do viện trợ của Hoa Kỳ. Với chương trình 4 năm Đại học về Khoa học ứng dụng và quân sự từ cấp khinh binh đến cấp Trung và Đại đội trưởng liên Quân chủng, TVBQGVN nhằm đào tạo những sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp cho Quân Đội. Bước sang năm thứ 4, do nhu cầu chiến trường, Tổng thống Diệm đã đích thân lên chủ tọa lễ mãn khóa cho Khóa 16 chúng tôi. Con số hơn 200 sĩ quan tốt nghiệp đã được phân phối đi Không quân 27 người, Hải quân 15, Nhảy dù 3 với Thủ khoa Bùi Quyền, Thủy Quân Lục Chiến 10 với Á khoa Nguyễn Xuân Phúc sau này nổi danh trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Lực lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh từ Cà Mâu ra đến Huế và Quảng Trị. Chỉ trong vòng 1 năm sau, số tử trận ngoài chiến trường lên đã gần 50 người.


Dù khóa chúng tôi đã được trui rèn thêm ở Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Dục Mỹ trước ngày ra Trường, khi đến đơn vị TQLC tôi cũng không được giao chỉ huy Trung đội. Ít nhất cũng phải 3 tháng mang súng đi theo học nghề từ các Hạ sĩ quan thâm niên vốn xuất thân từ các đơn vị Commando của Pháp.

Tôi thuộc mẫu người phản ứng chậm, theo phân tích tâm lý học. Lần dầu tiên, khi chính thức được làm Trung đội trưởng có hơn 40 TQLC với một số HSQ và hạ sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến trường và đám lính ngổ ngáo, tôi cũng tỏ vẻ mình cũng lì lợm như ai. Trong cuộc hành quân tìm diệt địch ở vùng đồng ruộng Cai Lậy, Mỹ Tho, khi đang chỉ huy dàn quân tiến vào một bìa làng, với tấm bản đồ trên tay, tôi bị một loạt đạn Việt Cộng bắn xối xả về phía mình. Lính tráng đã đồng loạt nằm xuống nấp. Chỉ còn một mình tôi đứng lớ ngớ do phản ứng chậm. Tiếng súng im bặt ngay loạt đạn đầu. VC chỉ bắn dọa và đánh lạc hướng. Tôi quay nhìn sang bên phải. Người lính gốc Miên nằm dưới mương đã bị trúng đạn. Chiếc nón sắt của anh lật ngửa chứa đầy óc trắng hếu. Khẩu súng Garand vẫn dính trong tay gác trên bờ mương. Máu phun ra ướt cả ống quần phải của tôi. Tôi buột miệng la lớn: “Y tá đâu?” Cùng lúc ý tưởng chạy nhanh qua đầu. Như thế là con người sống chết có số. Tôi còn đứng như trời trồng đây. Người lính của tôi đã nhanh nhẹn nằm núp xuống mương ngay bên chân phải của tôi. Anh chỉ ló đầu đội chiếc nón sắt. Nếu viên đạn hơi lệch một mi-li-mét cũng khiến cho chiếc nón sắt quay đi. Đằng này, viên đạn trúng ngay giữa tam tinh nên mới đi xuyên qua đầu làm vỡ óc. Trong khi ấy tôi là mục tiêu dễ trúng nhất. Lúc ấy, tôi mới thấy lạnh xương sống. Nhưng từ đó tôi không sợ gì nữa với ý tưởng con người sống chết có số. Sau này, tôi mới biết đám HSQ và lính tráng bảo nhau “Ông Thiếu úy Đà Lạt này chì lắm.” Từ đó, hình như lính tráng theo lệnh của tôi răm rắp. Đúng là thử lửa. Tây nói là Baptême de feu. Cũng từ đó, quả nói không ngoa, tôi đã “Vào sinh ra tử” hơn cả chục lần trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự Do cho đến cả cuộc di tản khốc liệt từ Quảng Trị về đến Hố Nai Biên Hòa vào cuối tháng 4 năm 1975.



Sau này tôi mới biết, qua sách vở của VC sau năm 75, cộng sản Miền Bắc VN đã cho bọn VC tập kết năm 1954 vào lại Miền Nam từ năm 1958 cùng với quân chính quy ngoài Bắc. Vũ khí Nga Xô, Trung Cộng, Tiệp Khắc tuồn vào Nam trên bộ lẫn ngoài biển. Từ năm 1962, chúng đã có cả 100 ngàn quân với trang bị AK47, CKC, RPD và B40. Trong khi, Tiểu đoàn 4 TQLC lâm trận Bình Giả vào cuối năm 1964, lính còn sử dụng súng Garand M1, Carbine M1, súng phóng lựu của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến. TQLC lại là một đơn vị Tổng Trừ Bị tinh nhuệ của Miền Nam. Người ta đã thử hỏi mấy ông Tướng VNCH biết gì, đã làm gì và chỉ huy mặt trận ra sao. Hay ngù ngờ, tranh giành quyền lực, tham ô nhũng lạm, ăn chơi trác táng, phe đảng nịnh bợ sau ngày Tổng thống Diệm bị hạ sát, bỏ mặc cho lính chết ngoài mặt trận.

Chúng tôi đã đi vào cuộc chiến với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và đầy lãng mạn. Lãng mạn khi chàng hiệp sĩ xuống núi và trang bị đầy lý tưởng. Lý tưởng bảo vệ bờ cõi non sông, mang an bình ấm no cho dân chúng. Trong số những người bạn cùng khóa Võ Bị về TQLC, tôi có người bạn học cùng lớp từ thời học trường Trung học Quang Trung tại Đà Lạt là Trịnh An Thạch. Đầu năm 1963, khi rủ nhau cùng vào trình diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC còn đóng ở Thị Nghè, chúng tôi đồng lòng cùng đi ra đơn vị tác chiến. Không biết Tư lệnh phó Nguyễn Bá Liên nghĩ gì đã chấm Thạch về Tiểu đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ ở ngay hậu cứ. Do Trưởng phòng Nhân Viên đã cho chúng tôi chọn đơn vị nhưng không ai đáp ứng nên đã quyết định phân phối theo mẫu tự ABC từ Tiểu đoàn 1 tới TĐ4TQLC. Đi TĐ1 có Trần Văn Hiển, TĐ2 với Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Xuân Phúc. Ba chàng chữ T về TĐ4TQLC là Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng và tôi. Thấy vậy, Trịnh An Thạch nhất quyết xin vào trình diện Tư lệnh phó và xin ra tác chiến. Cuối cùng Thạch được đi TĐ1 với Hiển. Cuối năm 1963, Trịnh An Thạch đã tử trận trong trận chiến ở Tây Ninh lúc mới 23 tuổi với cấp bậc Thiếu úy Trung đội trưởng. Thạch mồ côi cha từ bé và lại là con trai duy nhất trong gia đình. Đau thương để lại cho Mẹ già. Làm sao có thể để cho sự hy sinh trọn vẹn như thế của Trịnh An Thạch rơi vào quên lãng được. Trong khi ấy, bên Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, chúng tôi mất thêm người bạn cùng khóa là Lý Văn Quảng vẫn còn Thiếu úy độc thân cũng ngã xuống ở mặt trận Tây Ninh. Chúng tôi được tin khi đang tham chiến ở một mặt trận khác. Hồi thời Tổng Thống Diệm ra trường với cấp bậc Thiếu úy, lương bổng sống rất thong thả. Từ khu hành quân trở về Sài Gòn, chúng tôi còn kéo nhau đi ăn cơm Tây và xem “Cine”. Sau năm 1963, lương lãnh ra chỉ đủ ăn. Mặc đã có chiến phục rằn ri, rồi lại sống độc thân. Sau này lên đến Thiếu tá, Trung tá cũng chật vật.


Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm 1-11-1963


Từ trước ngày 1/11/1963, các khóa Sĩ quan Trừ bị ở Thủ Đức, từ K6 đến K12 tốt nghiệp cùng lúc với chúng tôi, chưa có quy chế đương nhiên lên Thiếu úy. Vài tháng sau khi chính thức được giao chỉ huy Trung đội, tôi được Trung úy Trần Văn Hoán bổ nhiệm kiêm Đại đội phó. Tuy đã tỏ ra có bản lãnh chỉ huy nhưng do tuổi còn quá trẻ nên tôi vô tư và ham chơi. TQLC vốn là một lực lượng Tổng trừ bị của quân đội. Tiểu đoàn TQLC được tự trị về hành chánh với quân số lên đến 879 tay súng với 4 đại đội tác chiến và Đại dội Chỉ Huy & Hành Chánh. Do đó, nơi nào chiến trường sôi động, ngoài tầm tay của đơn vị địa phương, Tiểu đoàn TQLC được điều động đến để giải quyết mặt trận. Vào đầu năm 1960, đơn vị chúng tôi lội suốt từ Cà Mâu qua Chương Thiện, Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười lên rừng núi Miền Đông, Pleiku, Kontum, xuống Bình Định, An Khê, Đỗ Xá... Sau mỗi cuộc hành quân kéo dài độ 1 tháng, chúng tôi được rút về Hậu cứ để bổ xung, chỉnh trang quân số trong vòng từ 1 đến 2 tuần lễ. Hậu cứ của Tiểu đoàn chúng tôi ở Vũng Tàu nên tha hồ rong chơi. Có khi, chúng tôi cũng được lệnh về nằm ứng chiến trong Trại Thị Nghè. Hễ ứng chiến thì bị cấm trại. Tuy nhiên, đến chiều tối thấy tình hình không có gì, bọn tôi rủ nhau ra phố Sài Gòn. Sài Gòn là Thủ đô Hoa Lệ nên thượng vàng hạ cám đều có đủ. Đi hành quân miết nên tiền bạc cũng rủng rỉnh. Lần nào ghé Sài Gòn tôi cũng mò vào mấy tiệm sách tìm mua sách báo mang theo trên đường hành quân. Ở Hậu cứ tôi cũng có một ngăn tủ sách bề bộn. Một lần, tôi ghé vào tiệm sách Khai Trí, trên đường Lê Lợi. Bước vào cửa tôi giật mình khi chợt nhận ra cô nàng Isabelle ĐTTM ngồi chễm chệ sau quầy tính tiền. Vào những năm 56, 57 ở Đà Lạt, trên đường cuốc bộ đến trường, tôi thường gặp một cô nàng gầy mong manh, có khi mặc áo dài, cỡi xe đạp về hướng trường Lycée Yersin, trên con đường bờ hồ. Cũng đôi lần, tôi tinh nghịch vờ chăm chú đọc bài trong tập vở để bước thẳng vào đầu xe đạp khiến cô nàng la oai oái. Về sau, mấy đứa bạn học bên Lycée mới cho biết tên là Isabelle ĐTTM. Lần này, tôi chọn xong một mớ sách báo rồi mang đến quầy trả tiền. Tôi nhìn thẳng vào mắt cô nàng hỏi:

• “Có biết tôi là ai không” Cô nàng tròn xoe hai mắt lúng túng: Dạ, dạ không”

• Tôi là người mấy lần suýt bị cô đụng xe đạp trên đường bờ hồ Đà Lạt đây

• Thế à. Tôi không nhớ

• Thế thì tốt rồi. Bây giờ, tôi mới hành quân về. Túi không có tiền. Cô cho tôi nợ lần sau tôi trả.

Cô nàng há hốc nhìn tôi lấm lét xanh da mặt ú ớ không nói được gì. Tôi bảo: Isabelle cho tôi cái túi. Nàng ta líu ríu làm theo. Tôi túm hết sách báo bỏ vào rồi quay ngoắt bước ra cửa. Nhìn lại, tôi thấy nàng ta đứng trố mắt nhìn theo. Tôi bật cười quay lại móc túi lấy tiền trả và nói: “Đùa nghịch tí thôi”. Lúc ấy cô nàng đang làm Tiếp viên Hàng Không Quốc Ngoại. Khi nào rỗi ra ngồi chơi ở Nhà Sách Khai Trí. Nào ngờ sau này nàng ta thành phu nhân của Tướng Nguyễn Cao Kỳ xa vời vợi. Có lần, ba đứa bạn cùng khóa Võ Bị ở cùng Tiểu đoàn rủ nhau đi ăn trên Chợ Lớn. Nửa khuya, đón xe Taxi con cóc hiệu Renault về Trại. gặp chàng tài xế trẻ biểu diễn chạy bằng hai bánh trên Đại lộ Trần Hưng Đạo vắng xe. Chàng tăng tốc độ rồi lách mạnh tay lái cho chiếc xe nghiêng hẳn một bên và tiếp tục chạy cả vài trăm thước. Nào ngờ xe Cảnh sát lưu thông bất chợt xuất hiện hú còi inh ỏi. Bọn tôi phải làm mặt ngầu mới cứu được anh tài xế trẻ.

Những ngày vui của chúng tôi tuy vậy rất ngắn ngủi. Miệt mài ở các mặt trận ngày đêm. Lúc ấy, bọn VC còn đang tránh né để tái tổ chức nên cũng chỉ đánh nhau lẻ tẻ với bọn du kích trong xa xôi. Thiệt hại và tổn thất thường do bắn sẻ, mìn gài, hầm chông và bẫy sập. Đi hành quân Miền Tây tuy phải lội sình lầy ướt quần áo suốt ngày nhưng khi dừng quân có thức ăn đầy đủ và không đánh lớn. Ra Miền Trung mới thấy khổ. Tìm thức ăn không ra mà gặp VC là đánh lớn. Vào hạ tuần tháng 10 năm 1963, Tiểu doàn chúng tôi được về Hậu cứ Vũng Tàu sau những ngày lặn lội ở Bến Tre. Mới được một tuần xả hơi, bỗng có lệnh hành quân về Miền Đông. Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe vận tải từ Quân đoàn 3 để xếp hàng dài trước cổng Trại. Thày trò chúng tôi lục tục lên xe. Gia đình binh sĩ, như thường lệ, chạy ra đứng đầy hai bên đường. Thấy mà lòng thương xót. Kiểm điểm xong quân số là đoàn xe lăn bánh. Quân số tham chiến buộc phải trên 70%. Chuyến đi nào cũng thấy gay go nhưng cũng mặc. Thủy Quân Lục Chiến mà. Đến xế chiều, đoàn xe dừng lại ở một khu vườn cao su bát ngát ở Lai Khê. Lệnh cho xuống đóng quân qua đêm. Dàn quân và bố trí xong là lo đào hầm hố cá nhân phòng thủ. Trọn một ngày sau cũng yên tĩnh. Tôi nằm đong đưa trên chiếc võng nhà binh đọc sách. Nghe nói Tiểu đoàn trưởng đang họp với các Đại đội trưởng. Rạng sáng ngày 1 tháng 11 năm 1963, lệnh cho thu xếp lên xe về Sài Gòn chống đảo chánh. Nghe nói về Sài Gòn lính tráng cười nói hể hả. Tôi in trí như thế. Quân đội chỉ làm theo lệnh thôi. Không thắc mắc. Đoàn xe về đến Xa lộ Biên Hòa vào trạm kiểm soát Cầu Xa lộ đã có ngay Quân cảnh dẫn đường. Thế là đúng rồi. Chắc có đám nào muốn đảo chánh theo chân Tướng Nguyễn Chánh Thi đây. Chống đảo chánh lại là phe ta đánh phe ta mới khó xử. Đoàn xe chạy một lèo đến Ngã Bảy Chợ Lớn rồi quẹo đường Cộng Hòa. Đoàn xe bỗng dừng lại ngay trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Chưa biết chuyện gì đã thấy từ ngoài vào trong Cảnh sát bỏ chạy không còn một mống.








Đám lính ào ào nhảy xuống xe chạy vào Tổng Nha Cảnh Sát trước những cặp mắt ngơ ngác của dân chúng ngoài phố. Tôi nhảy xuống xe, sốc lại dây ba chạc mang khẩu Colt 45 rồi bất đắc dĩ đi vào cổng Trại. Vừa ngang sân cờ, Binh Nhất Sơn, đệ tử của tôi hớn hở chạy ra miệng nói lép xép: “Thiếu úy ơi, em mới lấy được khẩu ru-lô trong phòng ông Đại tá Y nè. Còn nguyên si hết à”

-“Đâu dắt tao vô coi.” Doanh trại không còn một bóng người. Văn phòng của Đại tá Tổng Giám Đốc Nguyễn Văn Y còn nguyên vẹn với bảng tên trên bàn giấy. Tôi quay qua đám lính la lớn: “Không được lấy đồ của người ta. Ra tập họp hết bên ngoài.” Quay tìm ông Hạ sĩ quan Trung Đội phó “Trung sĩ nhất Lý Pit đâu, tập họp lại, chia các vọng gác ngoài cổng chính ngay”. Tôi mườmg tượng chuyện gì không ổn đang xảy ra. Đại đội trưởng chỉ vắn tắt: Mình chiếm giữ Tổng Nha Cảnh sát. Tôi nghĩ không lẽ mình làm đảo chánh. Ngay sau đó, chúng tôi được lệnh tiến quân theo dọc hai bên đường Cống Quỳnh tiến ra bùng binh bến xe buýt để nhận lệnh. Lính TQLC với ba-lô và súng cầm tay đi hai hàng dọc trong kỷ luật. Khi vừa tới bến xe buýt, tôi vượt lên chợt nhìn ra Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, trong bộ ka-ki vàng với nón hét [cap] mang cành lá liễu cấp tá, đứng bên cạnh chiếc xe Jeep nói chuyện với Đại úy Lê Hằng Minh là Tiểu đoàn trưởng của tôi. Vừa lúc tôi nghe thoáng là TQLC phải chờ Thiết giáp của Đại úy Lý Tòng Bá đến mới đánh vào dinh Gia Long. Lúc ấy vào khoảng 1 giờ trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tôi chợt nghĩ ra là mình đang tham gia đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Cũng vào tháng 11 năm 1960, trong trường Võ Bị, tôi đang làm Sinh viên sĩ quan Trực Liên Đoàn. Lúc ấy, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Nhảy Dù, làm đảo chánh. Trường ra lệnh cấm trại ứng chiến. Tôi gặp ông Thi khi còn là Trung úy, năm 1953, trong Liên đoàn Ngự Lâm Quân của Bảo Đại trên thành phố Đà Lạt. Sau đó, nhờ kéo quân về ủng hộ Tổng Thống Diệm đã được thăng nhanh lên tới Đại tá và được giao làm Tư lệnh một lực lượng thiện chiến tín cẩn là Nhảy Dù. Qua một đêm nằm khèo nghe đài phát thanh Sài Gòn tôi cũng không hiểu ất giáp như thế nào. Sáng hôm sau, nhằm ngày Thứ Hai, tôi được lệnh điều khiển lễ Chào Cờ của Liên Đoàn SVSQ. Tự nhiên, tôi tuyên bố hôm nay chào cờ không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống. Và Liên đoàn chỉ hát Quốc Ca rồi tan hàng. Gần đến trưa hôm ấy, một chiếc xe jeep An Ninh Quân Đội vào Trại rước tôi ra trình diện Trưởng Ty. Đến nơi, nào ngờ tôi gặp Đại úy Hợi là người quen trong gia đình. Ông làm mặt giận đập bàn la lớn: “Ai cho lệnh mi không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống” “Dạ không có ai hết. Tại nghe radio thấy đảo chánh nên đã không cho hát thôi.” “Răng mi ngu rứa. Mi có muốn ra Trung sĩ không?” Ông còn la lối nhiều nữa nhưng rồi cuối cùng ông điểm mặt nói: “Mi liệu hồn đó. Thôi về đi” Tôi mừng hết lớn đi vội ra xe về Trường. Bây giờ tôi làm đảo chánh. Lỡ thua chắc không biết có phải chạy sang Miên không.

Ngay khi xe thiết giáp chưa tới chúng tôi được lệnh tiến về phía đường Công Lý và Lê Thánh Tôn để đánh vào dinh Gia Long. Trung úy Trần Văn Hoán, Đại đội trưởng cho lệnh khẩu súng không giật 57ly tiến lên. Phát 57ly phá tung một lỗ hổng ngay góc Công Lý-Lê Thánh Tôn. Lính TQLC chạy ào qua đường vượt vào tường cao. Bên trong có vài phát đạn bắn ra lẻ tẻ nhưng TQLC không bắn trả. Chỉ trong chưa đầy nửa giờ, TĐ4TQLC đã hoàn toàn chế ngự dinh Gia Long. Khi tiến vào phía sau sân dinh tôi thấy lính đang lùa một số quân nhân trong Liên binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống ra ngoài. Tôi chợt nhận ra ông Thầy cũ trong Trường Võ Bị là Thiếu tá Huỳnh Văn Lạc. Sau này ông lên Tướng làm Tư Lệnh SĐ9BB. Tôi vội chạy tới đưa tay chào ông và nói lớn cho đám lính TQLC nghe: Thưa Thiếu tá, tôi là cựu SVSQ khóa 16 đây” Ông giơ tay lên lưng chừng rồi buông thõng xuống với vẻ mặt buồn bã. Tôi không biết làm sao hơn chỉ bảo lính dưới quyền kiếm một chiếc ghế trong nhà ra mời ông ngồi. Ngay sau đó người ta đưa ông đi đâu tôi không biết nhưng lòng tôi thật vô cùng xao xuyến như mình vừa phạm một tội lỗi gì đó. Tôi đi theo trông chừng đám lính đang đi xục xạo. Xuống tầng hầm tôi thấy phòng của Ngô Đình Lệ Thủy đã bị xáo tung lên hết. Có một người lính ôm một giàn máy quay đĩa chạy ngang, tôi nổi điên rút súng la lớn: “Bỏ xuống ngay không tao bắn” Chàng ta vội bỏ xuống chạy lên tầng trên. Hình như họ đã lục lọi đến phòng của bà Nhu. Đảo một vòng thấy không còn người lính nào tôi quay trở lên. Ngay đêm hôm ấy, TĐ2TQLC đã ra dinh Gia Long bàn giao vị trí. Chúng tôi được chở về Trại Thi Nghè. Ngày hôm sau, nghe nói có phái đoàn Phật giáo xin vào để ủy lạo cho Tiểu đoàn đã có công lật đổ Tổng Thống Diệm nhưng Thiếu tá mới thăng cấp Lê Hằng Minh từ chối. Lòng tôi trăm mối ngổn ngang. Lần đầu tiên, tôi nằm lặng trên võng suy nghĩ về thế sự. Từ đó, tôi không còn vô tư nữa. Cho đến ngày phải buông súng tức tưởi. Sau đó, chỉ còn bọn cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận phải trải máu và xương để chống lại bọn cộng sản.

Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ

Hồi năm 1963, tôi nghe nói Đại úy TQLCHK làm Cố vấn cho TĐ4TQLC đã bị tử thương khi về nghỉ ở Khách sạn Majestic, Sài Gòn khi nơi này bị VC đặt bom nổ. Về sau, khi hành quân ở Tầm Vu, Vĩnh Long, tôi thấy anh chàng Cố Vấn hớt hải chạy về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn nói: “Thật khủng khiếp quá” “Tao thấy lính của tụi mày treo ngược một con chó trên cành cây rồi cầm lưỡi lê cắt cổ nó. Dã man quá!” Chúng tôi chỉ cười không nói gì khiến chàng ta càng bực tức. Do cuộc hành quân đã kéo dài cả hơn tuần lễ nên thức ăn cũng thiếu thốn, ngay cả với Tiểu đoàn trưởng và Cố Vấn Mỹ. Nên chiều tối hôm ấy, bữa ăn của Thiếu tá Minh và Cố Vấn có thêm món thịt ngon miệng do mấy đệ tử dọn lên. Mãi đến khi ăn xong, chúng tôi mới tinh nghịch hỏi chàng Cố Vấn: “Hôm nay, ông ăn thịt thấy ngon không” “Thiệt quá ngon” “Thế ông có biết thịt gì không?” Chàng lắc đầu mở to mắt nhìn chờ câu trả lời. “Thì thịt con chó ông thấy tụi lính treo cổ đó.” Thế là chàng ta chạy ra sau hiên nhà móc cổ moi họng ọe cho ra. Nhưng vô hiệu. Chắc là kỷ niệm khó quên cho một nhiệm kỳ tham chiến ở Việt Nam.

Thật ra, từ nhỏ tôi đã được học lịch sử Việt Nam tới nơi tới chốn ở trường Việt nên tôi ghét Tàu và Pháp thậm tệ. Tất nhiên, tôi cũng không thích người Mỹ vì họ cũng là người ngoại quốc. “... Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Ý thức bài ngoại như đã ăn sâu trong tâm trí của tôi. Thế hệ trước tôi rất sính nói tiếng Tây. Tôi nghe mấy ông Tướng chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây. Có khi là tiếng Tây Bồi. Lớp chúng tôi chỉ học lý thuyết tiếng Anh. Còn nói được chẳng có mấy người, trước năm 1963. Nhờ hồi còn học Trung học Việt, tôi theo chân đứa bạn vào học lớp Anh Văn của một ông Mục sư Tin Lành giảng dậy nên tôi cũng lắp bắp được. Trong binh chủng TQLC nhờ thường xuyên gởi SQ sang Mỹ du học ở khóa Basic, tại Quantico, Virginia nên có nhiều người liên lạc được với Cố Vấn Mỹ. Các SQ Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Hải Quân Annapolis, tại Maryland, hay từ ROTC chuyển sang TQLC đều phải trải qua khóa Basic School tại Quantico, Virginia. Đa số SQ Quân đội HK không biết gì nhiều về Việt Nam khi họ sang tham chiến. Từ sau cuộc chiến thắng quân Trục Đức và Nhật, họ dến VN với lòng đầy cao ngạo và nghĩ chẳng bao lâu sẽ dẹp tan “Đám dân quân du lích mặc xà lỏn đi chân trần trốn chui trốn nhủi như hình ảnh mô tả trên Truyền Hình Hoa Kỳ”. Mãi cho đến ngày lâm trận Bình Giả, 31/12/1964, tôi mới có kỷ niệm sâu sắc về người SQ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ.

Người Bạn Mỹ đầu tiên, cho đến nay, vẫn còn liên lạc là Trung úy Phil O Brady. Sau cùng anh lên Đại úy tại mặt trận Bình Giả rồi giải ngũ. Gần cuối năm 1964, khi tôi làm Đại đội trưởng ĐĐ1 của TĐ4 TQLC, Cố Vấn Mỹ là Đại úy Frank Pete Eller. Nhân một ngày đem Đại đội ra ứng chiến tại Phi trường Biên Hòa, tôi được Cố vấn đưa đi theo một anh chàng Trung úy TQLCHK cao to hơn tôi cả cái đầu. Lúc ấy tôi còn mang lon Thiếu úy. Chàng ta đến gặp tôi với vẻ mặt nghiêm nghị và tự xưng “Tao là Trung úy Brady, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.” Tôi đưa tay chào và nói “Tao là Thiếu úy Toàn.” Thế thôi. Theo thói thường khi đi hành quân, xuống đoàn xe tải, thầy trò chúng tôi cứ kéo nhau đi ngổn ngang trên sân bay. Chợt Trung úy Brady chạy tới nói lớn với tôi: “Sao mày không tập họp Đại đội rồi đi đều bước đàng hoàng mà để lính đi lộn xộn như vậy.” Tôi nổi nóng định xì nẹt nó một trận nhưng nghĩ lại không nói gì mà chỉ cười khẩy. Tôi thầm nghĩ thằng này mới ra Trường đâu biết gì. Không hiểu sao, từ đó chàng ta thích tìm tôi nói chuyện. Lúc ấy, tôi mới nói với chàng ta rằng tao cũng xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia và cũng đã từng đi diễn hành ở Sài Gòn nhiều lần. Cơ bản thao diễn là nghề của tao mà. Tao đi chiến đấu đã gần 2 năm rồi. Nếu mày thắc mắc gì cứ hỏi tao, OK. Điều quan trọng nhất là từ nay mày cố giữ liên lạc với Quân Đội Mỹ để yểm trợ và tải thương cho tụi tao thay vì bắn lầm vào quân bạn.

Có một hôm, sau khi đi lòng vòng thăm chỗ đóng quân, Brady ghé đến chỗ tôi nói: “Tao đi lòng vòng thấy tụi lính đứa nào cũng ôm một chiếc Radio nghe nhạc gì tao không biết. Tao nghe tiếng e é lên xuống trầm bổng.” Tôi cố gắng giải thích: “Chắc mày thấy tụi nó nghe Cải Lương Vọng cổ đó. Giống như Mỹ nghe Country Music đó mà”. Ba-lô của Brady lúc nào cũng đầy các thức ăn lạnh và đồ hộp Mỹ với chai rượu Whisky mỏng dẹp. Cho đến ngày Tiểu đoàn chúng tôi nhảy Trực thăng vào mặt trận Bình Giả, Phước Tuy. Brady hầu như không rời tôi một bước. Có khi, tôi nói nửa đùa nửa thật: “Mày cao lớn quá, lại mang theo máy truyền tin gắn ăng-ten cao ngồng nên tránh xa tao ra, không lỡ VC bắn sẻ trúng tao đó.” Sau khi Thiếu tá Eller, cố vấn trưởng bị trúng đạn lúc tiến quân vào rừng Cao su Long Giao, Phil Brady lên thay thế. Chàng đã nhanh chân chạy thoát khỏi trận địa vào ngày 31/12/1964. Trở ra làng Bình Giả, chàng đã cố gắng phối hợp quân bạn để lập lại chủ động trên chiến trường cũng như tản thương những người lính sống sót. Chàng cũng đã liều lĩnh theo chân quân bạn trở vào chiến địa tìm tôi mhưng không kết quả. Bởi 3 ngày sau, tôi mới một mình bò về lại làng Bình Giả với 3 vết đạn thù trên ngực và chân phải. Trong khi ấy, Brady được gọi về Sài Gòn để được trao tặng huy chương Silver Star với chữ V và thăng cấp Đại úy. Tôi cũng mới được đương nhiên lên Trung úy ngày 22/12/1964 sau 2 năm ra Trường. Hết nhiệm kỳ 1 năm, Brady xin giải ngũ. Ngay sau đó, chàng ta xin trở lại VN làm việc cho USAID rồi phóng viên cho hệ thống truyền hình NBC của Hoa Kỳ. Chàng còn lập gia đình với một cô gái Bình Dương và chung sống cho mãi đến nay. Sau này, vào năm 1972, khi theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLCHK, tại Quantico, Virginia, tôi được mời dự cuộc họp mặt của các cựu Cố Vấn TQLCHK tại Woodbridge, VA. Từ đó, tôi mới biết thêm về ý nghĩ của các SQ đã từng làm Cố vấn cho TQLCVN. Với họ, chúng tôi đối xử không thân thiện như các quân binh chủng khác và thậm chí còn thù nghịch nữa. Như trường hợp Đại tá Nguyễn Thành Yên, Thiếu tá Hồ Quang Lịch cầm súng rượt đánh CV Mỹ vì không làm theo yêu cầu tản thương cho lính dưới quyền. Đại tá Nguyễn Thế Lương bỏ đói Cố Vấn. Trung tá Đỗ Hữu Tùng đuổi CV Mỹ về lại Sài Gòn, v.v. Tôi đã phải cố soạn một bài viết ngắn để lên diễn đàn giải thích cho họ hiểu và được vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt khi tôi lấy trường hợp của tôi với Phil Brady. Cho đến nay, trong số hơn 100 SQTQLC Hoa Kỳ đã từng làm Cố Vấn đã có 52 người lên Tướng của Quân Đội Hoa Kỳ. Trong số có Đại Tướng Boomer và Đại Tướng Joe Hoar.

Trong suốt cuộc chiến Việt nam, từ năm 1960 đến 75, nhờ Phái Bộ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ sát cận nên chúng tôi luôn nhận viện trợ trực tiếp của TQLC Hoa Kỳ, vốn là một binh chủng lừng danh. Nguồn tiếp vận không qua tay Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, đối với Quân Đội Hoa Kỳ, ngân sách của TQLC nằm trong Bộ Hải Quân và tương đối nhỏ so với Lực lượng Hải Quân. Dù sao, nguồn tài trợ hay quân dụng và quân cụ cũng không bị thất thoát qua guồng máy tham nhũng. Người Cố Vấn TQLCHK sau cùng của tôi là Trung tá Joey Strickland. Thực ra Strickland cũng không phải là CV mà là bạn học cùng khóa Chỉ Huy và Tham Mưu TQLC Hoa Kỳ, tại Quantico, VA, với tôi. Sau ngày mãn khóa, Joey tình nguyện sang phục vụ bên Việt Nam. Strickland nguyên là Tiểu đoàn trưởng Trinh Sát của TQLCHK. Năm 1973, Strickland đảm nhận công tác trong phái bộ Quốc Phòng HK bên cạnh Sư đoàn TQLCVN, đương nhiên là Cố Vấn làm việc trực tiếp với Tư Lệnh SĐTQLC. Lúc ấy, hệ thống Cố Vấn Hoa Kỳ đã giải tán trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh cho Mỹ rút quân. Khi ra thăm TQLC trấn đóng ngoài Quảng Trị, Strickland đã một mình tìm ra tận nơi đóng quân của TĐ4TQLC ở Chợ Cạn để gặp tôi. Do tình bạn đã hình thành khi học trong Trường, chúng tôi khá thân với nhau. Sau năm 75, nhờ Strickland tôi mới còn có được một số hình ảnh chụp ngoài chiến trường Quảng Trị. Tôi đã thẳng thắn cho Strickland biết rõ tình hình mặt trận. Ngược lại, Strickland cũng không ngại cho biết về tình hình chính trị bên Mỹ và cuộc rút quân Mỹ ra khỏi VN. Dù sao, tôi cũng không tin CS có thể dễ dàng tiến chiếm Miền Nam như đã xảy ra. Chúng tôi cũng sẽ đánh nhau tới cùng. Vào tháng 10 năm 1974, Strickland được triệu hồi về Mỹ. Trước ngày về nước, Strickland thu xếp ghé thăm tôi và khuyến cáo tôi nên lo cho gia đình vì chắc chắn Mỹ sẽ bỏ Việt Nam. Tôi không làm gì được vì trong tay còn trách nhiệm cả gần 800 tay súng. Bạn bè chúng tôi cũng trao đổi rằng nếu cùng lắm sẽ phải tử thủ Miền Tây Nam Phần của VN. Tất cả đều tan trong mây khói. Sang Mỹ, sau chuyến vượt biên vào tháng 5 năm 1984 đến Galang, tôi được gặp lại Joey Strickland trong một chương trình 20/20 của ABC vào năm 1986 khi họ làm một phóng sự về các cựu chiến binh sống sót sau cuộc chiến Việt nam. Từ Hawai, lúc đang dạy học ở một trường Đại Học, Strickland bay qua Virginia và trao cho tôi một chiến phục TQLC VN với đầy đủ huy hiệu. Strickland cho biết khi trở về làm việc tại Bộ Tư Lệnh TQLCHK tại Hoa Thịnh Đốn đã nghe tin Miền Nam thất thủ, vào khoảng tháng 5 năm 1975, từ viên Trung tá TQLCHK bàn giao chức vụ ở Việt Nam. Về nước, ông này còn được thăng lên Đại tá. Tức giận về việc cả hàng trăm ngàn chiến binh Việt Nam bị bỏ rơi, Strickland xin giải ngũ và về Hawaii đi học lại. Strickland dò hỏi tin tức về tôi và nghe nói tôi đã tự tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975
Trong suốt cuộc chiến, tôi chỉ có 2 người bạn Mỹ đúng nghĩa bạn là Phil Brady và Joey Strickland.

Ngày nay, tại Viện Bảo Tàng của TQLC Hoa Kỳ, trong căn cứ Quantico, tại Virginia, Tổ chức thân hữu cựu Cố Vấn Hoa Kỳ đã trưng bày khá nhiều di vật quý giá của binh chủng TQLC Việt Nam cho các du khách thăm viếng. Một vị Trung tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ tại Okinawa đã đọc một bài diễn văn bằng tiếng Việt, trong một Đại Hội TQLCVN, tại vùng Phụ Cận Hoa Thịnh Đốn. Tướng Smith nói rằng ông rất cảm phục tinh thần và khả năng chiến đấu của TQLCVN và ông đã học hỏi rất nhiều từ các cấp chỉ huy khi ông làm Cố Vấn trên chiến trường. Hầu như, ngày nay, các Tướng Lãnh của Hoa Kỳ đều đã từng tham chiến tại Việt Nam. Nhiều giải huy chương của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn trên ngực áo Đại lễ của họ. Dù sao, Quân Đội Hoa Kỳ cũng đã tổn thất hơn 58 ngàn quân sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam. Nhưng đến nay, dưới mắt tôi, Hoa Kỳ vẫn chưa rút ra một bài học đáng giá tại Việt Nam với hơn 58 ngàn quân lính ngoài chiến địa.

Trần Ngọc Toàn



.



Saturday, July 29, 2017

VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA PHỤ HUYNH


VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA PHỤ HUYNH CÓ CON EM THAM GIA HƯỚNG ĐẠO 
Bài viết của Trưởng Nhữ Văn Trí - Công Bền Chí 


         Lời dẫn nhập :
         Cha me nào cũng muốn con em mình trở thành đứa con ngoan, vâng lời trong gia đình, học hành giỏi tại học đường.  Cha me cũng muốn con em mình tham gia vào sinh hoạt Hướng Đạo để phát triển về thể chất và tính khí. Như vậy vai trò và trách nhiệm cũa phụ huynh đối với hướng đạo ra sao.
         Vai Trò của phụ huynh :
• Phải là bậc cha mẹ có con em tham gia Hướng Đạo.
Trực tiếp ghi danh con mình vào một đơn vị Hướng Đạo.
Tuân theo phương pháp giáo dục của Hướng Đạo.
Tôn trọng luật và lời hứa Hướng Đạo.
Sẵn sàng tình nguyện đóng góp công sức, tài chánh và thời gian cho Hướng Đạo, duy trì văn hoá truyền thống Việt, duy trì tiếng Việt , hội viên của đơn vị…
Trở thành dự Trưởng đơn vị khi có yêu cầu của phụ huynh hay Trưởng đơn vị.


         Trách nhiệm của phụ huynh:

Ghi danh con em mình gia nhập vào đơn vị Hướng Đạo gần nhà để tiện sinh hoạt như đưa đón đi họp, đi cắm traị, đi hiking…
Tìm hiểu về nguyên lý, nguyên tắc Hướng Đạo, phương pháp giáo dục... phụ huynh mới có kiến thức, dễ dàng thông cảm với Trưởng đơn vị  trong mọi hoàn cảnh. Tư tưởng thông suốt, rộng kiến thức về Hướng Đạo phụ huynh sẽ không thắc mắc, đặt vấn đề giáo dục con em, sẵn sàng hỗ trợ và giúp đỡ Trưởng đơn vị thật tốt.
Tìm hiểu lề lối sinh hoạt của đơn vị xem có phù hợp với nhu cầu gia đình mình hay không như có đơn vị sinh hoạt chiều thứ sáu, có đơn vị sinh hoạt sáng thứ bẩy, có đơn vị mở lớp giậy tiếng Việt sau giờ sinh hoạt…Khi thấy sinh hoạt phù hợp với con em mình phụ huynh mới quyết định ghi danh cho con em mình vào đơn vị đó. Điều kiện sinh hoạt thích hợp phụ huynh mới có điều kiện thuận tiện đóng góp thời gian, công sức cho sinh hoạt hướng đạo.


Tham gia vào chương trình huấn luyện đẳng cấp, chuyên hiệu Hướng Đạo. Hiểu biết về các chuyên hiệu và đẳng cấp để nếu khả năng mình phù hợp phần nào sẽ tham gia giúp đỡ đơn vị phần đó như một chuyên viên chẳng hạn.
• Nâng cao tinh thần đoàn kết. Khuyến khích phụ huynh và các em tham gia chương trình và kế hoạch đơn vị đề ra. Sinh hoạt đông đủ sẽ tạo tình đoàn kết gắn bó trong công việc.
• Liên lạc với công đồng để phối hợp sinh hoạt Hướng Đạo với cộng đồng khi đơn vị quyết định tham gia như Tết Trung Thu,Tết Nguyên Đán, sinh hoạt từ thiện…
Đóng góp ý kiến phát triển đơn vị như nhận thêm đoàn sinh, nhận thêm phụ huynh làm dự trưởng, gây quỹ đơn vị.
Theo dõi sinh hoạt của con em mình tại học đường cũng như trong sinh hoạt Hướng Đạo. Các em học giỏi nơi trường học sẽ giúp các em có thời gian nhiều khi tham gia sinh hoạt hướng đạo. Học giỏi và khá các em sẽ vui vẻ tự tin trong khi sinh hoạt.
• Thời gian qua đi các em càng ngày càng lớn. Tâm sinh lý biến đổi theo thời gian. Phụ huynh giúp Trưởng đơn vị theo dõi sinh hoạt con em mình để kịp thời uốn nắn khi các em làm sai như không chịu đi họp, không chịu đi trại, sinh hoạt khi có khi không vì ham chơi với bạn bè ngoài Hướng Đạo.
Liên lạc thường xuyên với các Trưởng để giữ mối hoà hảo, thông cảm, hiểu biết lẫn nhau.
• Tham dự tất cả các buổi họp của Đoàn, của phụ huynh theo định kỳ hay theo nhu cầu sinh hoạt.
Gia nhập Xóm hay Làng Hướng Đaọ Trưởng niên trong đơn vị. Hướng đạo cho trẻ em. Sống trong Xóm hay Làng Hướng Đạo phu huynh sẽ có nhiều cơ hội giúp đỡ các em, giúp đỡ đơn vị.



           Kết Luận:
           Vai trò và trách nhiệm của phụ huynh đối với Hướng Đạo rất quan trọng. Đơn vị dù có kế hoạch, chương trình huấn luyện rõ ràng, đầy đủ mà không có sự tham gia của phụ huynh trong việc giám sát, đóng góp công sức ,tài chánh, tinh thần thì không thể hoàn tất được sứ mệnh giáo dục con em Hướng Đạo một cách hoàn chỉnh. Nhìn một đơn vị Hướng Đạo phụ huynh và Trưởng vui vẻ hợp tác nhau chắc chắn đơn vị đó tiến xa. Con em Hướng Đạo sẽ gặt hái được kết qủa như Phu Huynh và Trưởng mong muốn.

                                                     Maryland, Hoa Kỳ. Mùa hè 2016
                                                       Công Bền Chí / Nhữ Văn Trí.



Ghi chú : Tham khảo tài liệu của Hội Đồng Trung Ương HĐVN.

DỰ TRẠI TIỀN THẲNG TIẾN XI

DỰ TRẠI TIỀN THẲNG TIẾN XI 
TT XI SHAKEDOWN CAMP 




   

Trại Thằng Tiến XI Shackedown Camp hay Trại Hè Miền Đông là tên gọi khác của Trại Tiền Thẳng Tiến XI (do người viết đặt) để chỉ trại thực tập chuẩn bị cho Trại Họp Bạn Thẳng Tiến XI đã chính thức diễn ra từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 – 2018 tại Camp William B. Snyder, Virginia. Đây là một cố gắng vượt bực của  Ban Đại Diện HĐTƯ/HĐVN và các đơn vị Hướng Đạo Miền Đông Hoa Kỳ là các Liên đoàn Gia Định, Potomac, Hùng Vương, Phú Xuân, Thăng Long, Trưng Vương và Crew 212. Số trại sinh ước chừng 300 với một số Trưởng tương đối ít mà đa số là Trưởng trẻ đã thực hiện một kỳ trại thử nghiệm về sinh hoạt và đời sống trại để sẵn sàng cho việc tổ chức điều hành THB Thẳng Tiến 11 cũng đúng thời điểm tại đất trại Camp Snyder này vào năm tới 2018.








Ngoài thành phần đoàn sinh và Trưởng Miền Đông, còn có sự tham dự của Trưởng Võ Thành Nhân (chủ tịch BTV/HĐTƯ/HĐVN), Nguyễn Trí Tuệ (TTK/HĐTƯ/HĐVN), Đỗ Phát Hai (Cố vấn HĐTƯ/HĐVN), Trần Anh Kiệt (Miền Tây Bắc Hoa Kỳ), Nguyễn Cao Bình, Linda Lê, Nguyễn Từ Vân, Trần Thanh Triết (Miền Trung Hoa Kỳ). Hai Trưởng niên đến giúp việc có Trưởng Nguyễn Hữu Đệ và Đỗ Quốc Tuyến. Trưởng Hạ Bá Phúc và bề trên Thanh Trúc, Trưởng Nhữ Văn Trí cùng bề trên (chị Đoàn Thị Mừng) có mặt trong ngày khai mạc trại. Tráng đoàn Nguyễn Trãi có 7 anh chị em tham dự: Lý Nhật Hui và Nguyễn Bá Thành từ Nam California, Trần Công Hoàng và Trần Mai Hoa từ Florida, Trần Ngọc Toàn, Hoàng Kim Châu và Cao Ngọc Cường từ Texas. TS Phạm Ngọc
Lâm (Toán Chi Lăng) là Phó trại trưởng điều hành.

            Đi chung chuyến bay từ phi trường George Bush đến phi trường Dulles có ba anh em: Trần Ngọc Toàn (Cọp Biển Can Trường), Hòang Kim Châu (Hươu Hăng Hái) và Cao Ngọc Cường (Đà Điểu Siêng Năng).Trưởng Bobby Trần (đại diện Miền Đông) đón Cọp và bề trên về nhà, Hươu và Đà Điểu được anh Lạc Đà Điềm Đạm Phạm Ngọc Lâm bốc và đưa thẳng vào trại để dùng cơm chiều và dự buổi sinh hoạt vui đầu tiên với các Trưởng. Đến khuya, anh Lạc Đà chở về nhà để ngủ qua đêm và sáng sớm hôm sau được anh Ngựa Hoạt Bát Lý Nhật Hui và Nguyễn Bá Thành vừa từ Cali đến bốc để chạy thẳng ra khu thương xá Eden gặp anh Gấu Cần Cù Trần Công Hoàng và chị Hải Âu Kiên Tâm Trần Mai Hoa. Mọi người vui mừng hàn huyên trăm thứ chuyện…






Trại khai mạc lúc 4 giờ chiều thứ sáu, 30 tháng 6 với đầy đủ nghi thức. Trại trưởng Phạm Quế Chi tuyên bố khai mạc trại sau những lời chào mừng của Trưởng Võ Thành Nhân, Trưởng Bobby Trần và giới thiệu thành phần Ban tổ chức. Mặc dầu trời nắng chang chang nhưng tất cả trại sinh vẫn thực hiện phần trình diễn của mình khá ngoạn mục là sắp đội hình thành một chiếc Nút Dẹp (tức Nút Nối Dây) thể hiện ý nghĩa là tất cả Hướng Đạo Sinh lúc nào cũng phải Giữ Chặt Mối Dây thật bền vững dù gặp bao nhiêu gian nguy khó khăn. “Giữ Chặt Mối Dây” đạt kỷ lục mới, cũng là Chủ đề  của trại Thẳng Tiến XI. Buổi tối có lửa trại, mỗi đơn vị đều có tiết mục trình diễn. Sáng ngày thứ bảy (1 tháng 7) mọi sinh hoạt được tiến hành đúng chương trình tại các tiểu trại. Khoảng 3 giờ chiều, tin thời tiết báo động có bão nên các trò chơi bị chấm dứt sớm hơn dự liệu. Buổi tối có chương trình Chợ Đêm và đặc biệt  là chương trình cùng hát “Đêm Việt Nam” do Tráng Đoàn Nguyễn Trãi phụ trách với sự tham dự của các Trưởng và phụ huynh.



    Cũng cần nhắc là, do yêu cầu của Ban tổ chức Thẳng Tiến XI, Tráng Đoàn Nguyễn Trãi giúp hai chương trình cho Trại Thẳng Tiến: Đố Vui Để Học và cùng hát “Đêm Việt Nam” (gồm phần Lịch sử ca và Du ca). Chương Đố Vui Để Học sẽ thực hiện vào năm tới trong trại Thẳng Tiến, đây là một cuộc thi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam chống ngoại xâm phương Bắc.





Đêm Việt Nam tại Tiền Thẳng Tiến quy tụ người tham gia không mấy đông vì một số Trưởng và phụ huynh bận với các em tại “Chợ Đêm”. Ban tổ chức trại hiện diện cùng với các Trưởng Võ Thành Nhân, Nguyễn Trí Tuệ, Đỗ Phát Hai. Hai, Trưởng Trần Anh Kiệt và Nguyễn Cao Bình cùng với 6 Tráng sinh Nguyễn Trãi hướng dẫn mọi người cùng hát, bắt đầu bằng lời giới thiệu ngắn gọn của TS Hoàng Kim Châu đại diện Tráng đoàn Nguyễn Trãi sơ lược dòng lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam. TS Lý Nhật Hui phụ trách phần kỹ thuật, Trưởng Phạm Ngọc Sơn (LĐ Gia Định) đệm guitar trong khi các tác động viên Nguyễn Bá Thành, Nguyễn Cao Bình, Trần Anh Kiệt, Hoàng Kim Châu, Cao Ngọc Cường lần lượt hướng dẫn để mọi người cùng hát theo lời ca âm vang của giòng lịch sử hào hùng của dân tộc Việt, bắt đầu bằng những ca khúc Trưng Nữ Vương, Bóng Cờ Lau, Bạch Đằng Giang…cho đến Hội Nghị Diên Hồng, Nước Non Lam Sơn…Đại Phá Quân Thanh…đến Nhà Việt Nam, Việt Nam Minh Châu Trời Đông… Sang phần Du Ca với Việt Nam Quê Hương Ngạo nghễ, Bài Ca Tuổi Trẻ, Về Với Mẹ Cha, Đường Việt Nam, Đoàn Ta Ra Đi, Đuốc Hồng Tuổi Trẻ, Hy Vọng Đã Vươn Lên…Để kết thúc, hai Trưởng Trần Anh Kiệt và Nguyễn Cao Bình song ca bài “Người Yêu Tôi Bịnh” với lời nhắn của Nguyễn Đức Quang: “Đi làm công tác xã hội là đã chọn một người yêu: Nguyễn Thị Quê Hương).


             Kết thúc “Đêm Việt Nam”, mọi người chia tay lưu luyến và mong gặp lại để cùng hát vào mùa hè năm sau cũng tại đất trại này.

         







                    






   Ngoài việc thực hiện “Đêm Việt Nam”, các TS Lý Nhật Hui, Nguyễn Bá Thành và Hoàng Kim Châu có dự buổi họp với Ban Sinh hoạt Văn Hóa Thẳng Tiến XI cùng các Trưởng Nguyễn Mỹ Hương, Lê Đoàn Thu An, Tr. Châu…để thảo luận và biểu quyết một số chi tiết liên quan đến Chương trình Đố Vui Để Học cho trại sinh TT XI vào năm 2018. Một số điểm đã được đồng thuận như sau: 1/ Các đơn vị dự trại Thẳng Tiến XI ghi danh tham dự cho các em Thiếu và Thanh, mỗi đơn vị 3 em. 2/ Thời gian ghi danh: Từ 1 tháng 1 – 2018 đến hết 31 tháng 3 – 2018. 3/ Phổ biến tài liệu Đố Vui Để Học và nội quy: ngày 1 tháng 1 – 2018. Thời lượng Đố Vui Để Học” là 120 phút. 4/ Giải thưởng: Ba toán có điểm cao và ba cá nhân có điểm cao. Chi tiết của những điều nêu trên và những đề mục liên quan khác sẽ được lần lượt đăng trên các Bản Tin Thẳng Tiến XI.


Có một vấn đề cần nhắc ra đây để góp ý với Ban tổ chức: Đó là vấn đề Ban báo chí. Khi vào đất trại chúng tôi không thấy nơi làm việc của Ban báo chí và cũng không được biết Trưởng nào phụ trách ban này. Hỏi ra thì mới biết ban này do Trưởng Hạnh phụ trách. Mãi đến chiều thứ sáu chúng tôi mới gặp được Trưởng Hạnh, một Trưởng rất trẻ, nhiều thiện chí nhưng hình như chưa hề đảm nhận công việc có liên quan đến báo chí. Khi được hỏi, Trưởng Hạnh cho biết không có nơi làm việc trong trại và không có người phụ trách ngoài Trưởng. Trưởng Hạnh có mời mọi người viết bài để làm Bản Tin nhưng cho đến thời điểm đó không ai viết bài cả. Tôi và anh Đà Điểu thấy vậy nên hai anh em hứa sẽ viết bài cho Bản Tin, thực ra chỉ là vài bài thơ chứ thực sự có nhiều vấn đề mình không nắm vững nên không dám viết và cũng không có thời gian để đến với các sinh hoạt trại. Với tinh thần xây dựng, đề nghị Ban tổ chức quan tâm đến vấn đề truyền thông báo chí để mọi tin tức của Thắng Tiến XI được phổ biến rộng rãi khắp nơi, từ đó các đơn vị có thể chuẩn bị chu đáo cho đoàn sinh trước khi lên đường về dự trại. Và ngay từ bây giờ, nên có một Ban báo chí để thực hiện “Bản Tin Hằng Ngày” của Thẳng Tiến XI vào năm tới, một công việc không hề đơn giản, cần có một số nhân sự nhất định trước.

Hoàng Kim Châu ghi nhận


         

Sunday, July 23, 2017

NHẬT TIẾN THỀM HOANG VẪN MỘT TRÁNG SINH LÊN ĐƯỜNG

Nhà văn Nhật Tiến, cũng là Trưởng Bùi Ngọc Tiến, một Tráng Sinh Lên Đường  (năm 1970, tại một trại của Tráng Đoàn Bạch Đằng tổ chức tại Thủ Đức)  Một trưởng thân hữu của Tráng Đoàn Nguyễn Trãi đã góp bài và yểm trợ cho Nội San Tráng Đoàn từ những năm đầu tiên. Chúng tôi hân hạnh đăng lại bài viết của nhà văn BS Ngô Thế Vinh viết về Nhật Tiến Thềm Hoang Vẫn Một Tráng Sinh Lên Đường như một lời cảm ơn đến Nhà văn Nhật Tiến 
Bài đã được đăng tại trang nhà Nhật Tiến: https://nhavannhattien.wordpress.com/nhat-tien-them-hoang-van-mot-trang-sinh-len-duong-ngo-the-vinh/


                                    Thư Nhà văn Nhật Tiến gửi anh Hoàng Kim Châu năm 2004



NHẬT TIẾN THỀM HOANG VẪN MỘT TRÁNG SINH LÊN ĐƯỜNG
Ngô Thế Vinh



Ðã mang lấy nghiệp vào thân
                             Nguyễn Du
HƯỚNG ĐẠO THỜI NIÊN THIẾU
Bùi Nhật Tiến, bút hiệu Nhật Tiến sinh ngày 24-8-1936 tại Hà Nội. Năm 1946 mới 10 tuổi Nhật Tiến đã phải theo gia đình rời Hà Nội đi tản cư qua những tỉnh như Sơn Tây, Việt Trì, Hưng Hoá, Phú Thọ. Năm 1950 hồi cư, ở cái tuổi 14 không còn nhỏ nữa để sinh hoạt sói bầy, Nhật Tiến xin gia nhập phong trào Hướng Đạo làm đoàn sinh đội Én Thiếu Đoàn Bình Than khá muộn màng. Thiếu Đoàn Bình Than thuộc Đạo Đồng Nhân, và đạo này có bài hát chính thức do đoàn sinh Cung Thúc Tiến của Thiếu Đoàn Bạch Đằng sáng tác. Cung Thúc Tiến chính là nhạc sĩ Cung Tiến sau này với những nhạc phẩm Hoài Cảm, Thu Vàng.
Ngày “Tuyên Hứa” để được gia nhập phong trào Hướng Đạo Việt Nam là một dấu ấn quan trọng trong cuộc đời nhà văn nhà giáo Nhật Tiến. Lễ tuyên hứa được tổ chức tại Chùa Láng cách Hà Nội 5 km. Trong Hồi ký của Nhật Tiến, tuy đã hơn 60 năm sau, anh vẫn còn nguyên vẹn xúc động khi hồi tưởng lại phút được “tuyên hứa” như điều mơ ước đã trở thành hiện thực.
 “Tôi hồi hộp tiến lại lá cờ Đoàn. Tất cả các anh em đều yên lặng, nghiêm trang theo dõi cử chỉ của tôi. Tôi đứng thẳng người trước lá cờ. Tay phải tôi chào theo kiểu Hướng Đạo, tay trái tôi nắm nhẹ lấy một góc của lá cờ, và tôi cất giọng dõng dạc:
Trước Quốc kỳ, tượng trưng cho Tổ quốc, trước Đoàn kỳ tượng trưng cho tinh thần Hướng Đạo, tôi xin lấy danh dự của tôi để tuyên hứa:
– Thứ Nhất : Trung thành với Tổ Quốc.
– Thứ Nhì : Giúp ích mọi người
– Thứ Ba:  Tuân theo Luật Hướng Đạo.
Sau khi lấy được bằng Hạng Nhì, tôi được giao phó nhiệm vụ làm đội trưởng đội Én. Một trong những đội sinh của tôi là anh Đỗ Tiến Đức, sau này trở thành nhà văn, năm 1969 anh được Giải Văn Học Nghệ Thuật với tác phẩm Má Hồng, và còn là đạo diễn kiêm Giám Đốc Nha Điện Ảnh, anh hiện chủ trương tờ Thời Luận ở Los Angeles, trước là báo in, sau này trở thành báo Online.
Tôi lên Kha đoàn năm 17 tuổi, ở dự bị Tráng năm 18. Sau di cư 1954, tôi sinh hoạt nhiều năm trong Tráng Đoàn Bạch Đằng gồm 4 Toán: Chương Dương, Vân Đồn, Hàm Tử và Tây Kết.  Tôi được giao nhiệm vụ Toán trưởng Toán Vân Đồn [trong Toán có anh Trương Trọng Trác sau này lên tới chức Ủy Viên Ngành Thiếu của Hướng Đạo Việt Nam và khi ra hải ngoại, anh là người chủ trương tờ báo Ngày Nay với bút hiệu Trọng Kim ở Houston, Texas cho đến khi anh qua đời 2009]. 


             Nhật Tiến và các Huynh Trưởng Hướng Đạo (hình chụp tại Orange County 2014)

“Mùa hè năm 1970, tại một trại của Tráng Đoàn Bạch Đằng tổ chức tại Thủ Đức, tôi được trao cho cây gậy mà ở đầu có 2 gạc của Tráng Sinh Lên Đường, cũng là đẳng cấp mà một Hướng Đạo Sinh mơ ước đạt được. Từ nay, trong giao dịch sinh hoạt Hướng Đạo tôi có thể ký tên: Én nhanh nhẹn RS – RS là chữ viết tắt của Rover Scout / Anh hay Routier Scout / Pháp, cũng có nghĩa là Giúp ích / Rendre Service đúng với châm ngôn của ngành Tráng.  
Hai chữ Hướng Đạo đối với tôi bao giờ cũng thiêng liêng, nó gợi cho tôi bao tình cảm thắm thiết, bao kỷ niệm khó phai mờ và bao nhiêu anh em đồng đội đã không chỉ chia xẻ với nhau trò chơi Hướng Đạo mà còn ở trong sự nghiệp ở ngoài đời”.
Đến nay cũng đã trên 65 năm trôi qua, Nhật Tiến vẫn thuộc hát bài ca Đoàn, vẫn sống theo tinh thần Hướng Đạo với châm ngôn “Sắp Sẵn”“Giúp Ích” trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo tôi, tinh thần Hướng Đạo ấy đã có ảnh hưởng sâu xa tới nghề giáo và trên nghiệp văn của Nhật Tiến trong suốt những năm về sau này. Hãy nghe chính Nhật Tiến kể lại:
“Những người áo trắng” được sáng tác vào khoảng năm 1955 khi tôi đang dậy học ở Bến Tre. Đấy là những kỷ niệm của thời hướng đạo sinh ở Hà Nội, chúng tôi thường đi làm các công tác từ thiện, như mùa đông thì đẩy xe bò qua các đường phố để quyên góp quần áo của bà con đem giúp những người nghèo. Hoặc chúng tôi tình nguyện ra đứng ở bờ Hồ Gươm bán tác phẩm của kịch tác gia Văn Thuật để gây quỹ giúp đồng bào bão bị lũ lụt thời đó. Chúng tôi cũng thường hay tới sinh hoạt tại trại mồ côi trên đường Hàng Đẫy; trong thời gian này hình ảnh những trẻ mồ côi mặc quần áo trắng, những bức tường trắng và những cô gái lớn tuổi hơn trông đàn em nhỏ đã gây cho tôi nhiều xúc động. Và tôi đã dùng những hình ảnh ở trại mồ côi đó để viết tác phẩm đầu tay“Những người áo trắng”.
Như vậy, có thể nói một cách khá đoan chắc, nếu Nhật Tiến không có những năm sinh hoạt Hướng Đạo, sẽ không có Những Người Áo Trắng và rồi những tác phẩm khác như Thềm Hoang sau này.

THUỞ MƠ LÀM VĂN SĨ
Nhật Tiến cầm bút rất sớm, từ thuở học sinh đã mơ làm văn sĩ, lập bút nhóm có tên là “Gieo Sống”, có truyện ngắn đầu tay “Chiếc nhẫn mặt ngọc” được đăng trên báo Giang Sơn, năm ấy Nhật Tiến mới 15 tuổi.
Di cư vào Nam năm 1954; ban đầu sống ở Đà Lạt, Nhật Tiến viết kịch truyền thanh cho Đài tiếng nói Ngự Lâm Quân [thời còn Hoàng Triều Cương Thổ]. Ít lâu sau đó, gia đình Nhật Tiến dọn về Sài Gòn. Không tốt nghiệp trường sư phạm nào nhưng năm 21 tuổi anh đã bắt đầu đi dạy học môn Lý Hoá tại các trường trung học tư thục, ban đầu ở các tỉnh Miền Tây như Bến Tre, Mỹ Tho ba năm sau đó mới về sống hẳn ở Sài Gòn. Truyện dài đầu tay Những Người Áo Trắng được khởi viết và hoàn tất khi Nhật Tiến đang còn là một thầy giáo tỉnh lẻ.

Nghề giáo như nguồn sinh kế của gia đình nhưng có lẽ nghiệp văn mới là giấc mộng lớn của Nhật Tiến. Anh liên tục viết rất khoẻ từ truyện ngắn, truỵện dài và cả một tiểu thuyết kịch đăng trên các tạp chí: Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Đông Phương, Bách Khoa, Văn, Văn Học; chủ trương nhà xuất bản Huyền Trân từ năm 1959, chủ bút tuần báo Thiếu Nhi do nhà sách Khai Trí xuất bản từ 1971 tới 1975; năm 1979 trong một chuyến vượt biển thừa sống thiếu chết Nhật Tiến qua được Thái Lan rồi định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1980.
Tới Mỹ, không còn sống bằng nghề dạy học, Nhật Tiến đi học về máy điện toán/ hardware và sau đó làm cho một hãng Nhật đủ 15 năm trước khi nghỉ hưu. Tại hải ngoại, Nhật Tiến tiếp tục viết và xuất bản sách, sinh hoạt Hướng Đạo, hoạt động cứu trợ thuyền nhân. Hiện cư ngụ ở Nam California.

Tác phẩm đã xuất bản:
Xuất bản trong nước trước 1975:  Những Người Áo Trắng (truyện dài, Huyền Trân 1959), Những Vì Sao Lạc (truyện dài, Phượng Giang 1960), Thềm Hoang (truyện dài, Đời Nay 1961), Người Kéo Màn (tiểu thuyết kịch, Huyền Trân 1962), Mây Hoàng Hôn (truyện dài, Phượng Giang 1962), Ánh Sáng Công Viên (tập truyện, Ngày Nay 1963), Chuyện Bé Phượng (truyện dài, Huyền Trân 1964), Vách Đá Cheo Leo (truyện dài, Đông Phương 1965), Chim Hót Trong Lồng (bút ký, Huyền Trân 1966), Giọt Lệ Đen (tập truyện, Huyền Trân 1968), Tay Ngọc (bút ký, Huyền Trân 1968), Giấc Ngủ Chập Chờn (truyện dài, Huyền Trân 1969) Quê Nhà Yêu Dấu (Huyền Trân 1970), Theo Gió Ngàn Bay (Huyền Trân 1970), Tặng phẩm của dòng sông (tập truyện, Huyền Trân 1972), Thuở mơ làn văn sĩ (Huyền Trân 1974)…và một số truyện viết cho tuổi thiếu nhi như: Lá Chúc Thư, Đường lên Núi Thiên Mã…
Xuất bản ở hải ngoại sau 1975:  Tiếng kèn (1981), Hải tặc trong vịnh Thái Lan (viết chung với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy, 1981), Một thời đang qua (1985), Mồ hôi của đá (1988), Cánh cửa (1990), Quê nhà Quê người (viết chung với Nhật Tuấn, ấn hành ở trong nước, 1994), Thân Phận Dư Thừa (2002), bản dịch cuốn The Unwanted của Kiên Nguyễn, Hành Trình Chữ Nghĩa (2012) – Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác (2012) – Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi (2012) – Một Thời… Như Thế (2012)
Với hơn 20 tác phẩm đã xuất bản, với nhiều thể loại, các tác phẩm chính của Nhật Tiến đều có liên hệ tới tuổi thơ. Nhật Tiến được mệnh danh là nhà văn của tuổi thơ bất hạnh, nhà văn của khuynh hướng xã hội. Võ Phiến trong bài viết về Nhật Tiến trong bộ Văn Học Miền Nam đã đưa ra nhận xét: “Lúc bấy giờ ai cũng biết ở Miền Nam có nhiều tác giả tên tuổi viết về giới trẻ thơ. Mỗi vị một vẻ. Trẻ em trong truyện Duyên Anh thường là những trẻ đáo để. Đám trẻ của Lê Tất Điều hầu hết đều có nét tinh nghịch. Trong Nhật Tiến là trẻ bất hạnh”.  [VHMN, truyện 2, tr.1270, Nxb Văn Nghệ 1999]


QUAN NIỆM SÁNG TÁC
Năm 1961, Nhật Tiến đã thành danh với ba tác phẩm xuất bản: Những Người Áo Trắng 1959, Những Vì Sao Lạc 1960, Thềm Hoang 1961, Nhật Tiến trả lời cuộc Phỏng vấn Văn Nghệ của báo Bách Khoa do nhà văn Nguiễn Ngu Í thực hiện.
  Sáng tác để làm gì, cho mình hay cho thiên hạ?
      Theo ý tôi, giữa cá nhân người viết và xã hội đã có sự liên quan mật thiết. Từ lúc có ý định xây dựng tác phẩm đến lúc hoàn thành, người viết đã băn khoăn biết bao lần trước các hoàn cảnh. Mỗi ngày một ít, mỗi chỗ một cảm hứng riêng biệt, mặc nhiên sự vật chung quanh đã đóng góp cho nhà văn một phần cảm hứng. Như thế khi một tác phẩm hoàn thành, không ít thì nhiều cũng mang lại lợi ích cho cả đôi bên: người viết được phần thưởng tinh thần (vật chất đối với nhà văn ta bây giờ quá ít, không đáng kể), còn xã hội được thêm một phần đóng góp trên phương diện văn hoá.
       
     Sáng tác theo đường lối nhất định nào hay là tuỳ cảm hứng?
       Có lẽ “đường lối” ở đây là “phương pháp làm việc”. Nếu hiểu theo nghĩa ấy thì tôi không theo được cả hai. Bởi vì nói phương pháp thì phải có hệ thống, có chương trình bó buộc, còn cảm hứng thì phải có nhiều thời gian vì hứng đến với mình từng lúc. Mà riêng tôi thì vì bận bịu với nghề nghiệp [nghề giáo, ghi chú của người viết], nên có khi mệt mỏi hàng tháng không viết thêm được một dòng. Nhưng gặp trường hợp rỗi rãi, có thời gian, tôi cắm cúi viết, bất kể có hứng hay không. Tuy vậy thông thường nếu có cảm hứng, lại thêm rỗi rãi thì sáng tác dễ dàng hơn.
     Những gì đã xảy ra từ khi tác phẩm thai nghén đến khi hình thành?
       Tôi bắt đầu bằng một nhân vật sống trong một hoàn cảnh nào đem lại cho tôi nhiều rung cảm nhất. Từ nhân vật ấy tôi viết chương thứ nhất. Rồi từ đấy, tuỳ theo sự kiện đã viết trong chương trước (sự kiện này đến với tôi trong lúc viết), tôi dựng chương sau. Thường thường là viết được 9, 10 chương tôi mới nghĩ đến “kết”. Lối viết này, theo tôi tạo được nhiều khách quan hơn là xây dựng sẵn một cốt truyện có sắp đặt từ đầu. Vì nếu định trước, tác phẩm sẽ bị gò bó, do đó mất đi nhiều ý mới lạ.
      Kinh nghiệm sống và sáng tác thích nhất?
       Về hình thức thì khi viết, tôi cố gắng giữ cho mình cái ý nghĩ là “đừng làm văn chương”, vì thật ra tả cảnh mà không sáo thì thật là khó. Để tránh cái khó đó, tôi chọn lối hành văn giản dị. Nhưng chọn là một chuyện, mà theo được hay không lại là một chuyện khác. Cái đó theo tôi nghĩ, thuộc về phê phán của người đọc. Còn nội dung tác phẩm thì thú thật tôi còn băn khoăn nhiều, chưa dám gọi là kinh nghiệm để nêu lên mặt báo. Còn về sáng tác của tôi, tôi thích nhất thì theo thiển ý, các truyện của mình tuy đã in ra, chưa hẳn là ai cũng đọc đến, để nói ra là ai cũng biết ngay; cho nên xin miễn điều ấy cho tôi. Nhật Tiến [hết trích dẫn: Bách Khoa, Số 115, 15-10-1961, tr. 103-104]

     Với bài viết ngắn giới hạn khoảng 7 ngàn chữ, với hơn 20 tác phẩm thật khó mà giới thiệu Nhật Tiến một cách đầy đủ. Trong chỗ riêng tư, khi tôi hỏi Anh nếu phải chọn 3 tác phẩm để giới thiệu, Nhật Tiến nhắc tới 3 cuốn: Thềm Hoang, Người Kéo Màn, Giấc Ngủ Chập Chờn. Đó cũng là chọn lựa của người viết để giới thiệu tính cách đa dạng của ngòi bút Nhật Tiến.
     “Thềm Hoang” là những kiếp người trong Xóm Cỏ, một xóm lao động nghèo với bùn lầy nước đọng giữa lòng thành phố Sài Gòn. Ngay khúc dạo đầu của tác phẩm Thềm Hoang là bốn câu thơ bi ai:
Ai đưa tôi đến chốn này
Ban đêm thì tối ban ngày thì đen
Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên
Nghêu ngao mấy điệu cho quên tháng ngày
     Bốn câu thơ ấy để giới thiệu nhân vật chính bác Tốn, nghệ sĩ mù kiếm sống bằng nghề hát dạo. Thằng Ích, mồ côi cha mà đã khôn lanh trước tuổi, nó là đôi mắt sáng của bác Tốn. Cô Huệ gái điếm đã hết thời xuân sắc nhưng vẫn là nỗi mơ ước của bác Tốn qua trí tưởng tượng và sự mô tả của thằng Ích. Một U Tám goá bụa giữa chừng xuân, mê lời đường mật của một gã đàn ông, sau này trở thành Dượng Tám, hiện nguyên hình tên lưu manh sống bám vợ và cả bạo hành đối với vợ con. Lão Hói, rượu chè be bét, sống bằng bói bài tây và lúc nào cũng tin có ông trời. Tới ông Phó Ngữ goá vợ, chỉ có đứa con gái duy nhất, mong nó có được mô tấm chồng tử tế nhưng cũng chẳng xong. Rồi người lính Năm Trà phải đi đóng đồn xa, để lại vợ con cho mẹ già, người vợ trẻ đang tuổi thanh xuân không chịu được cảnh cô đơn, quyết định bỏ nhà ra đi; do không đủ tiền nuôi cháu, bà mẹ Năm Trà phải đem ba cháu nhỏ cho viện mồ côi, sau đó bà cụ phát điên… Những số phận ấy chung sống với nhau trong Xóm Cỏ tạo nên một khung cảnh xã hội nghèo khó vừa ảm đạm vừa bi thiết và không có lối thoát. Cảnh khổ là mẫu số chung của đám cư dân sống trong Xóm Cỏ. Hình ảnh bác Tốn người nghệ sĩ mù, và thằng Ích, cả hai gần như lúc nào cũng bàng bạc hiện diện trong suốt 300 trang sách.
    
Đỉnh cao của tấn bi kịch xã hội Thềm Hoang đánh dấu bằng sự trở về của người lính Năm Trà trong bộ quân phục bạc thếch nhếch nhác, gặp lại mẹ già thì nay đã bị mất trí không nhận ra con mình. Trước thảm kịch gia đình tan nát đó, Năm Trà cũng nổi điên trả thù đốt nhà đốt xóm. Cả Xóm Cỏ tan hoang trong lửa đỏ hoà lẫn với những tiếng kêu khóc thảm thiết. Rồi một trận mưa lớn đổ ập xuống đống tro than như muốn rửa sạch những rác rưởi của những thềm hoang trong Xóm Cỏ. Khép lại trang sách cuối, người đọc tự hỏi liệu có một ngày mai nào tươi sáng hơn cho những Xóm Cỏ tương lai?  Với nội dung ấy, với bút pháp điêu luyện của Nhật Tiến, Thềm Hoang đã được trao giải Giải Văn Chương Toàn Quốc 1961-1962.

“Người Kéo Màn” nhiều người cho rằng sở trường của Nhật Tiến là viết truyện ngắn truyện dài về những đề tài xã hội, về trẻ thơ bất hạnh. Thực sự Nhật Tiến cũng đã viết nhiều vở kịch truyền thanh, cả kịch được trình diễn trên sân khấu như “năm 1960, khi có trận bão lụt nặng nề ở Miền Tây, Tráng đoàn Bạch Đằng và Toán Nữ Tráng Thanh Quan đã tham gia công cuộc cứu trợ bằng một Đại hội Văn nghệ ở Rạp Thống Nhất, Sài Gòn. Trong Đại hội này, tôi đã sáng tác một vở kịch ba màn có tên là Cơn Giông mà diễn viên chỉ gồm toàn Tráng sinh Bạch Đằng hay Thanh Quan, một trong những diễn viên của vở kịch ấy là luật sư Trần Sơn Hà, anh hiện đang sống ở Quận Cam  “. [Một Đời Hướng Đạo, Nhật Tiến].


Người Kéo Màn được Nhật Tiến gọi là “tiểu thuyết kịch”, là tác phẩm thứ tư của Nhật Tiến, đó là một quan niệm rất mới đối với “kịch” theo cái nghĩa cổ điển. Do đó cũng đã gây ra nhiều phản ứng và tranh luận. GS Nguyễn Văn Trung trong Lược Khảo Văn Học, tập II đã không tán thành tiểu thuyết kịch của Nhật Tiến, và cho rằng “tiểu thuyết kịch chỉ đưa đến sự lẫn lộn bộ môn, đồng thời xoá bỏ khả năng đặc biệt của bộ môn bị sát nhập”. Kịch tác gia Vi Huyền Đắc cũng không đồng ý gọi Người Kéo Màn là kịch. Nhưng với Nhật Tiến, sau hơn nửa thế kỷ, anh vẫn cứ tâm đắc với tác phẩm Người Kéo Màn. Nhật Tiến đã khá mạo hiểm vận dụng và kết hợp cả ba kỹ thuật của tiểu thuyết, của kịch, của điện ảnh để viết Người Kéo Màn. Thay vì các nhân vật chỉ diễn xuất trên sân khấu, họ còn có vai trò trải rộng ngoài đời. Nội dung Người Kéo Màn nói lên mối tương quan giữa các thành viên của ban kịch gồm đạo diễn, lão kéo màn, chàng nhạc công thổi kèn clarinette, nữ diễn viên cho đến đứa bé, nhà mạnh thường quân với nhân vật “tác giả” của vở kịch, mọi sự diễn ra trong những giả dối, mua chuộc, mưu toàn lừa gạt nhau, mâu thuẫn, đầy ngộ nhận bi thảm ngay trong chính cuộc sống của họ, họ đây là giới hoạt động nghệ thuật. Mỗi nhân vật đều có vai trò không chỉ trên sân khấu, mà cả sau hậu trường nơi phòng hoá trang và ngoài cảnh đời thật của họ với đủ mọi hỉ nộ ái ố không thiếu sự lừa gạt đến nhơ nhuốc. Nhật Tiến, đang từ ngòi bút đôn hậu rào rạt tình thương của Những Người Áo Trắng, Thềm Hoang, bước sang tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn là một Nhật Tiến hoàn toàn khác, của hoài nghi bi quan tới mức tàn nhẫn.   

“Giấc ngủ chập chờn” được sáng tác vào giữa thập niên 1960s, lúc bấy giờ cuộc chiến ở Việt Nam do Hà Nột phát động đã bắt đầu lan ra các tỉnh Miền Nam. Nhật Tiến viết về ấp Vĩnh Hựu, hoàn cảnh của một vùng xôi đậu tức là vùng tranh tối tranh sáng. Ban ngày thì do quốc gia kiểm soát, nhưng ban đêm thì do bên kia, dân chúng sống trong vùng đó gia đình bị phân tán, có anh em thì theo bên này, có anh em thì theo bên kia, và họ chết vì cuộc chiến tương tàn. Họ sống dở chết dở giữa hai làn đạn với oán thù chồng chất vây bủa giăng mắc họ ngày đêm. Đám thanh niên và cả con nít ở cái làng đó vốn thân thiết với nhau nhưng đến lúc cuộc chiến tràn về thì hàng xóm giết nhau, anh em cũng giết nhau, gây ra bao thảm cảnh khổ đau. Nhưng người dân quê ấp Vĩnh Hựu thì vẫn cứ gắn bó với mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình và không bao giờ muốn xa rời. Các cụ già thường nói với tụi con cháu: “Tụi bây muốn giết nhau ở đâu thì giết, nhưng cấm bắn nhau ở trong các ngõ ngách này. Chẳng dây mơ cũng rễ má, ít nhiều gì thì tụi bây cũng có liên hệ gia đình, ruột thịt hay quê hương. Giết nhau trên phần đất ông cha là nhục nhã”. [Giấc ngủ chập chờn, tr.63, Nxb Huyền Trân 1969].  

Bìa “Giấc Ngủ Chập Chờn” của Nhật Tiến,
Nxb Huyền Trân, Sài Gòn 1969
Cuốn sách nói lên một sự thực là không có phong trào quần chúng bất mãn chế độ mà nổi dậy trong cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Với cái nội dung tố cáo như vậy, Hà Nội đã đánh giá cuốn sách đó là cực kỳ phản động.

GIẢI VĂN CHƯƠNG TOÀN QUỐC
Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc được đặt ra từ 1957. Theo Tạp chí Văn Hữu số 21 do Văn Hoá Vụ ấn hành 1962, tác giả Hàn Phong đã viết về “Lược sử Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc” thời Đệ Nhất Cộng Hoà 1954- 1963:
Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc với đặc tính không đòi hỏi một điều kiện nào về nội dung hay hình thức của các tác phẩm dự thi hay những tác phẩm được xem xét đến. Các tác phẩm phải được xuất bản trong niên khoá. Theo nguyên tắc, giải thưởng được tổ chức hàng năm nhưng do số tác phẩm xuất bản chưa nhiều nên giải thưởng đã được tổ chức hai năm một lần:
Lần thứ nhất 1955-57: Hội đồng Giám Khảo đã đọc 206 tác phẩm xuất bản từ 1954 đến cuối năm 1956, do tác giả hay nhà xuất bản gửi tới dự thi, gồm đủ các loại khảo luận, tiểu thuyết, thi ca và kịch.
Hội đồng Giám khảo gồm có học giả, giáo sư, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch sĩ như: Gs Nghiêm Toản, Nguyễn Thành Châu, Nguyễn Khắc Kham, Lm Nguyễn Văn Thích, Trương Công Cừu, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bà Tùng Long, Vi Huyền Đắc, Đông Hồ, Trần Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan. Chủ tịch Hội đồng là học giả Đoàn Quan Tấn. Lễ tặng giải thưởng đã được tổ chức ngày 25-8-1958 tại Dinh Độc Lập do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà trao tặng.



                                                        Chân dung Nhật Tiến (1974)
 Khảo luận: “Văn Chương Bình Dân” của Lm Thanh Lãng, “Xây Dựng Nhân Vị” của Bùi Tuân, “Người Xưa” của Trần Đình Khải.
Tiểu Thuyết: “Tìm về Sinh Lộ” của Kỳ Văn Nguyên, “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” của Nguyễn Kiên Trung [tức Nguyễn Mạnh Côn, ghi chú của người viết], “Nếp Nhà” của Bửu Kế.
Thơ: “Anh Hoa” của Phạm Mạnh Viện, “Long Giang Thi Tập” của Trần Hữu Thanh, “Nam Trung Thi Tập” của Nguyễn Văn Bình, “Kiếp Hồng Nhan” của Quang Hân.
Kịch: “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn, “Ái Tình Bôn-Sê-Vích” của Thạch Bích, “Hai Màu Áo” của Minh Đăng Khánh.  
Lần thứ hai 1958-59: Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc lần hai có sự đổi mới, lần này tác giả không phải gửi tác phẩm tới dự thi nữa mà do Hội đồng chọn lựa trong toàn bộ ấn loát phẩm xuất bản từ năm 1958 đến cuối năm 1959. Vì không quan niệm là một cuộc dự thi, các nhân viên Hội đồng tìm đọc tất cả các tác phẩm. Và nay Hội Đồng đổi tên thành Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-59 [thay vì danh xưng Hội Đồng Giám Khảo, ghi chú của người viết].
Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-59 bao gồm nhiều văn nhân nghệ sĩ, giáo sư như Hà Như Chi, Hà Thượng Nhân, Đái Đức Tuấn, Trần Hữu Thanh, Đỗ Đức Thu, Đông Hồ, Vi Huyền Đắc. Chủ tịch Hội Đồng là Gs Trương Công Cừu, Khoa Trưởng Đại học Văn khoa.
Trong suốt 5 tháng Hội Đồng đã đọc 54 cuốn khảo luận, 34 cuốn tiểu thuyết, 50 tập thơ và 3 vở kịch. Và đã trao tặng 7 giải thưởng. Lễ trao giải được tổ chức tại Phòng Triển lãm Đô Thành do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, đại Diện Tổng Thống chủ toạ.
Khảo Luận: Dịch Kinh Tần Khảo” của Nguyễn Mạnh Bảo, “Việt Nam Văn Học Toàn Thư” của Hoàng Trọng Miên.
Tiểu Thuyết: “Đò Dọc” của Bình Nguyên Lộc, “Thần Tháp Rùa” của Vũ Khắc Khoan, “Đời Phi Công” của Toàn Phong [Nguyễn Xuân Vinh, ghi chú của người viết], “Mưa Đêm Cuối Năm” của Võ Phiến.
Thơ: “Tập Hoa Đăng” của Vũ Hoàng Chương
Riêng bộ môn Kịch không có giải thưởng.
Lần thứ ba 1960-61: Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc lại thay đổi phương hướng và với danh hiệu mới “Hội Đồng Tuyển Trạch Giải Thưởng Văn Chương 1960-1961” do nhà biên khảo Thu Giang Nguyễn Duy Cần làm chủ tịch gồm ba tiểu ban. Tiểu ban Khảo luận gồm:  Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Văn Trung. Tiểu ban Thơ: gồm Vũ Hoàng Chương, Đông Hồ, Thanh Tâm Tuyền. Tiểu ban tiểu thuyết và kịch: Vi huyền Đắc, Vũ Khắc Khoan, Đỗ Đức Thu, Bình Nguyên Lộc.
Hội Đồng đã họp 3 lần, cứu xét 112 tác phẩm gồm 37 cuốn biên khảo, 34 cuốn tiểu thuyết, 39 tập thơ và 3 vở kịch, kết quả như sau:
Biên khảo: Giải duy nhất “Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị” của Lê Ngọc Trụ
Tiểu Thuyết: “Thềm Hoang” của Nhật Tiến, “Gìn Vàng Giữ Ngọc” của Doãn Quốc Sỹ, “Tàu Ngựa Cũ” của Linh Bảo.
Thi ca: “Đường Vào Tình Sử” của Đinh Hùng, “Hy Vọng” của Hoàng Bảo Việt, “Tổ Ấm” của Anh Tuyến, “40 Bài Thơ” của Mai Trung Tĩnh và Vương Đức Lệ.
Riêng bộ môn Kịch không có giải thưởng.
     [hết lược dẫn VH21, tr. 76-81]
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây là luôn luôn có sự cải tiến về tổ chức sau mỗi kỳ Giải Thưởng Văn Chương. Nhưng có một nguyên tắc không thay đổi là không đòi hỏi một điều kiện nào về nội dung hay hình thức của các tác phẩm. Theo tường thuật của nhà văn Nguiễn Ngu Í, Bách Khoa CXXXVIII  – 113, chủ tịch Hội đồng Giải Văn chương Toàn quốc lần thứ ba, Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã nêu lên tiêu chuẩn lựa chọn của Hội đồng, thâu tóm trong hai chữ Văn chương có nghĩa là ý hay lời đẹp và theo ông: “Tác phẩm được chọn sẽ là phản ánh của một nền văn hoá tự do, nghĩa là không bị bó buộc trong khuôn khổ của một hệ thống tư tưởng nào, hay phải theo một khuynh hướng văn nghệ hay chính trị nào cả”.  
Sau khi phát giải, ông Lê Ngọc Trụ, đại diện cho các nhà văn trúng giải, lên phát biểu ý kiến. Ông cho rằng sự lựa chọn ngày phát giải đúng vào ngày huý nhật Nguyễn Du thật là đầy ý nghĩa, và gợi cho ông và các bạn văn trúng giải tinh thần trách nhiệm thiêng liêng, ấy là thiên chức của nhà văn đối với tiếng Việt và nguyện vọng của nhà văn đối với tiền đồ văn hóa Tổ quốc.  [Nguiễn Ngu Í, Bách Khoa CXXXVIII  – 113]
Đây là Giải Văn chương Toàn quốc lần thứ ba và cũng là giải văn chương cuối cùng của nền Đệ nhất Cộng Hoà. Do những biến động chính trị, Giải Văn Chương của Đệ Nhị Cộng Hoà 1963-75 chỉ được phục hoạt kể từ 1966.
Cũng nên ghi nhận thêm ở đây, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hoà, giới làm văn hoá đã xây dựng được nền móng vững chắc ban đầu trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật của Miền Nam. Các nhà văn nhà thơ được trao giải sau này đều là những tên tuổi lớn của 20 năm Văn Học Miền Nam như: các thi sĩ Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, các nhà văn Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Nhật Tiến, Linh Bảo…


NHẬT TIẾN VÀ VĂN HÀO NHẤT LINH
Cuối năm 1955, qua Trương Cam Vĩnh là em nhà văn Trương Bảo Sơn, Nhất Linh nhận được bản thảo Những Người Áo Trắng cũng là tác phẩm đầu tay của Nhật Tiến. Nhất Linh nhận ra văn tài của Nhật Tiến nên đã chọn và đưa ngay Những Người Áo Trắng cho nhà Phượng Giang xuất bản. Nhất Linh giới thiệu Nhật Tiến vào Văn Bút mà lúc đó Nhất Linh đang là Chủ tịch, và đồng thời cũng mời Nhật Tiến viết cho tạp chí Văn Hoá Ngày Nay. Mối giao tình giữa văn hào Nhất Linh và Nhật Tiến từ 1955 tới 1963 phải nói là sâu đậm.
Năm 1963, tình hình chính trị Miền Nam cực kỳ biến động nơi các thành phố với những cuộc biểu tình tự thiêu, giữa lúc khói lửa ngập trời do cuộc chiến tranh phát động từ Miền Bắc Bắc đã lan rộng ra khắp cá tỉnh Miền Nam. Cái chết của Nguyễn Tường Tam nhà hoạt động chính trị và Nhất Linh nhà văn là một nét của thảm kịch giai đoạn đó. Đó là một phần của lịch sử.  Cái chết của nhà văn Nhất Linh thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn là một xúc động lớn cho giới trẻ Miền Nam lúc đó. Người viết muốn ghi lại ở đây một chút riêng tư liên quan tới bản Di Chúc của Nhất Linh.
Có lẽ Nhất Linh đã chuẩn bị chu đáo cái chết của mình từ mấy tuần lễ trước. Bị theo dõi, nghĩ rằng bản di chúc của ông có thể bị tước đoạt, thời điểm năm 1963 chưa có máy photocopy, scanner, internet phổ biến như bây giờ. Nhất Linh đã viết thêm một bản di chúc thứ hai giao cho nhóm sinh viên. Lúc đó tôi đang học năm thứ ba Y khoa. Vào những ngày đầu của tháng Bảy, 1963 Nguyễn Tường Quý chở anh là Nguyễn Tường Vũ [con của ông Nguyễn Tường Thuỵ, người anh cả của mấy Anh Em gia đình Nguyễn Tường] xuống Đại học xá Minh Mạng tìm tôi. Quý chờ xe ở ngoài, chỉ có Nguyễn Tường Vũ vào gặp. Không nói gì nhiều, Vũ trao tay cho tôi một phong thư mỏng, cho biết đó là một trong hai bản di chúc viết tay của Nhất Linh: “Nhờ Vinh giữ, khi cần Vinh đưa lại”. Khi Nguyễn Tường Vũ ra về, tôi đã lặng lẽ cất bản di chúc thứ hai ấy – như một chứng từ lịch sử, trong tủ sách giữa những trang bộ Từ điển Đào Duy Anh bìa cứng dầy cộm do Nxb Minh Tân, Paris xuất bản.
Bản Chúc thư ngắn, cô đọng chỉ với 71 chữ:
    “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự huỷ mình cũng như Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi tự do.”
7 tháng 7, 1963_ Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
     Nhất Linh tuẫn tiết vào ngày 7 tháng 7 năm 1963. Chỉ một ngày sau bản tin của UPI/ United Press International do Neil Sheehan gửi đi sáng ngày 8 tháng 7, 1963 đã phổ biến rộng rãi trên báo chí thế giới:
     “South Viet Nam Eminent Writer Commits Suicide” by Neil Sheehan, “South Viet Nam’s most eminent writer committed suicide today as a political protest on the eve of his trial for alledged complicity in the abortive 1960 coup against President Ngo Dinh Diem. Nguyen Tuong Tam [mispelled Pam by Sheehan] 58, who wrote under the pen name of Nhat Linh, left an eloquent testament protesting against Diem’s rule. The former nationalist leader died in a hospital after taking poison. The suicise of Tam, considered Viet Nam’s greatest writer of the 20th century, came at a time of growing political and religious unrest under Diem’s regime. His death was expected to stir further political repercussions, particularly among the country’s intellectuals… The text of Tam’s short testament said: “History alone will judge my life. I will allow no man to try me. The arrest and trial of all the nationalist opponents of the regime is a crime which will force the nation into the hands of the communists.”  UPI 7/8/1963
   

Và như vậy là bản chúc thư thứ nhất của Nhất Linh đã tới tay báo giới ngoại quốc. Bản tôi hiện giữ không còn tầm quan trọng một-mất-một-còn như lúc Vũ trao cho tôi trước đó. Sau này, qua Ls Nguyễn Tường Bá, tôi được biết bản chúc đã được nhà báo Như Phong chuyển tay cho hãng thông tấn UPI.
Đám tang Nhất Linh diễn ra ngày 13 tháng 7, 1963. Thành phần đưa đám ông đa số là học sinh sinh viên. Nỗi xúc động của họ đa phần hướng về cái chết của một nhà văn, trong khi các đồng chí của ông thì muốn dán nhãn cho cái chết của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam như một “tuẫn tiết chính trị”. Bấy lâu, từ những thập niên 1930, Nhất Linh đã là một khuôn mặt của quần chúng / public figure về cả hai phương diện văn học và chính trị. Phần nào văn học hay chánh trị đậm nét hơn là do tâm cảnh của từng người. Tôi vẫn thấy đậm nét văn học của đám tang Nhất Linh ngày hôm đó. Bức hình chụp chân dung Nhất Linh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, câu đối viếng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương với toàn tên tác phẩm của Nhất Linh:

“Người quay tơ, đôi bạn, tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt
Đời mưa gió, lạnh lùng, bướm trắng, buổi chiều vàng đâu chỉ nắng thu”
Cái chết của mỗi nhà văn tự thân bao giờ cũng là một bi kịch nếu không muốn nói là một thảm kịch. Theo một nghĩa nào đó, mỗi nhà văn đã chết từng phần trên mỗi tác phẩm của họ. Hãy trân trọng những cái chết đó, xem đó như một mẫu số chung hàn gắn thay vì phân hoá. Chế độ chính trị nào rồi cũng qua đi, nhà văn thì vẫn cứ trường tồn với tác phẩm của họ.
Điếu văn của nhà văn trẻ Nhật Tiến lúc đó mới 27 tuổi, giữa vòng vây của mật vụ thời ấy, Nhật Tiến đã can đảm phát biểu với tính cách một nhà văn độc lập cho dù lúc đó Anh đang là phó Chủ tịch Văn Bút. Nhật Tiến đã ràn rụa nước mắt với hết tâm can nói tới cái chết của nhà văn Nhất Linh:
“Văn hào đã hình thành sứ mạng cao quý của người cầm bút. Văn hào đã nêu cao sĩ khí bất khuất của truyền thống những nhà văn chân chính.”
Ít ngày sau đám tang Nhất Linh khi gặp lại, tôi trả Nguyễn Tường Vũ và Tường Quý bản di chúc thứ hai ấy. Nguyễn Tường Vũ rất nghệ sĩ, cũng là người trình bày cho tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, anh đã mất ngày 19 tháng 5, 1991 khi anh đang làm công tác thiện nguyện thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc lo việc cứu trợ thuyền nhân ở Palawan, Phi Luật Tân. Nguyễn Tường Quý thì nay vẫn còn nhớ khi đưa Vũ xuống Đại học xá gặp tôi để Vũ đã giao cho tôi giữ một bản di chúc của “Bác Tam” ngày hôm đó.

TỪ SÀI GÒN TỚI ĐẢO QUỶ KO KRA
Kẹt lại sau năm 1975, trường ốc chưa mở, nhà in Huyền Trân phải ngưng hoạt động rồi lại phải gác bút, cả gia đình Nhật Tiến ra đường bán quán để kiếm sống.
Mai Thảo và Duyên Anh ít ngày sau 30 tháng tư 1975 đã tới ngồi ăn ở quán vỉa hè này, bên cạnh đấy là một quán khác của Loan Mắt Nhung Nguyễn Thuỵ Long, cũng trên đường Duy Tân. Mai Thảo viết:
“Cái cảnh tượng đập vào mắt tôi lúc đó, về hai cái quán liền sát cùng trước một vỉ tường thấp chạy dài, là cái cảnh tượng của một đối nghịch hoàn toàn. Mang chung sự thất thủ của văn nghệ gác bút ra đường bán quán trước hoàn cảnh mới, cái quán của Nguyễn Thụy Long với những xị đế ngổn ngang trên mặt bàn và mấy người khách hàng trẻ tuổi cùng ngất ngưởng như Long, hiện rõ vẻ bụi đời anh chị. Cái quán của Nhật Tiến khác hẳn. Nó lành mạnh hơn và cũng gia đình hơn gấp bội, với những đĩa rau muống chẻ nhỏ đặt ngay ngắn, bên cạnh là một chảo mỡ sôi bốc khói xanh um, chị Nhật Tiến má hồng cái củi lửa chiên những cái bánh tôm vàng ngậy và đứa cháu lớn, nơ cài mái tóc, váy xếp chững chạc, đang phụ một tay với ông bố nhà văn. Nhớ hôm đó, chúng tôi đã ăn ủng hộ Thềm Hoang Quán mỗi người một đĩa bánh tôm, rất ngon, và tôi đã hỏi đùa Nhật Tiến: Rửa bát thạo ngay, giỏi nhỉ? Và Nhật Tiến đã cười, nụ cười bình thường chừng mực, nụ cười hơi già trước tuổi một chút của một nhà giáo. Nhật Tiến bao giờ cũng trước hết xác nhận mình là một nhà giáo: Giỏi quỷ gì. Việc phải làm thì phải làm. Để cho ai đây.” [Nhật Tiến Vẫn Đứng ở Ngoài Nắng, Tạp chí Văn California số 6, tháng 12/1982].
Nhật Tiến nhà văn cũng phải đi dự một khoá học tập chính trị một tháng cùng với nhiều văn nghệ sĩ Miền Nam khác như Hoài Bắc, Thái Thanh, Nguyễn Thị Vinh, Đỗ Phương Khanh, Nguyễn Thuỵ Long… Là thầy dạy lý hoá không phải môn văn, sau này Nhật Tiến được đi dạy học trở lại nơi ngôi trường tư thục cũ. Nhưng rồi không thể tiếp tục sống làm nhà giáo của Một Thời Nhếch Nhác, tháng 11 năm 1979 Nhật Tiến đã quyết định vượt biển ra đi, cùng chuyến đi có thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, nguyên Giám đốc Nxb Lá Bối [và tiếp tục trên đất Mỹ điều hành Nxb Văn Nghệ những năm về sau này].
Đó là một chuyến đi của những thảm kịch khi họ gặp hải tặc Thái Lan. Họ đã sống những tuần lễ địa ngục trên đảo Ko Kra với đói khát, bạo hành. Rồi họ cũng sống sót được cứu đưa về trại tỵ nạn Songkhla, tại đây nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến là một trong những nhân chứng sống của vụ kiện hải tặc trên Vịnh Thái Lan, Anh đã cùng hai nhà báo Dương Phục và Vũ Thanh Thuỷ viết và gửi ngay ra ngoài những bản cáo trạng về thảm cảnh trên Biển Đông, đã làm rúng động lương tâm của thế giới và cũng là bước đầu hình thành Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển hoạt động nhiều năm về sau này.


                                      Nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến ngồi viết cáo trạng
                               thảm cảnh Biển Đông trong trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan 1980

NHẬT TIẾN ÉN NHANH NHẸN R.S. 80 TUỔI
Còn một tuần lễ nữa 24-08-2015 là sinh nhật thứ 80 của Nhật Tiến. Sinh nhật thứ 80 ở Mỹ, cũng là tuổi Nhật Tiến phải thi lại bằng lái xe. Chuẩn bị cho ngày ấy, Anh đã tới bác sĩ nhãn khoa để được điểu trị laser võng mạc mắt trái, trước đó Anh cũng đã qua hai cuộc mổ cườm mắt/ cataract, nay với kính progressive cận/ lão Anh vẫn đạt mức thị lực 20/20, Anh cũng đang chuẩn bị ráo riết thi lại phần viết của Nha Lộ Vận / DMV để đổi bằng lái xe mới. Ở tuổi nào thì Anh cũng vẫn sốt sắng gắn bó với đời sống theo đúng tinh thần Hướng Đạo. Ngay cả ở tuổi 80 mà vẫn còn chăm chỉ học bài để vác bút đi thi! Tôi nghĩ Anh cũng sẽ dễ dàng bước qua kỳ thi này.

                                                    Từ phải: Nhật Tiến, Ngô Thế Vinh
                                                    [photo by Đào Nhật Tiến, Dallas]

Bài viết vội với hơn 7 ngàn chữ gửi tới Anh, phải kể là quá ngắn so với cuộc đời rất phong phú và đa dạng của Anh: một nhà văn, một nhà giáo, và một đời hướng đạo. Nhật Tiến rất trực tính và can đảm. Không phải ai cũng chia xẻ và đồng tình với cách hành xử của Anh. Và không ít lần Anh đã phải trả giá cho những ngộ nhận và cả vùi dập cho những điều Anh phát biểu.  Nhưng có điều chắc chắn đó là tiếng nói lương tâm của Nhật Tiến.
Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng – chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến – Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường.

NGÔ THẾ VINH

California 24-08-2015