晚 次 鄂 州
雲開遠見漢陽城,
猶是孤帆一日程。
估客晝眠知浪靜,
舟人夜語覺潮生。
三湘愁鬢逢秋色,
萬里歸心對月明。
舊業已隨征戰盡,
更堪江上鼓鼙聲。
盧綸
Vãn thứ Ngạc Châu
Vân khai viễn kiến Hán Dương thành
Do thị cô phàm nhất nhật trình
Cô khách trú miên tri lãng tĩnh
Chu nhân dạ ngữ giác triều sinh
Tam Tương sầu mấn phùng thụ sắc
Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh
Cựu nghiệp dĩ tùy chinh chiến tận
Cánh kham giang thượng cổ bề thanh!
Lư Luân
Dịch nghĩa
Chiều muộn ghé Ngạc Châu
Mây quang, xa xa trông thấy thành Hán Dương
Nhưng còn một ngày thuyền nữa mới tới
Khách ngủ ban ngày, biết là sóng lặng
Bạn thuyền đêm nói chuyện, biết con nước về
Ở Ba Tương buồn bạc cả đầu, lại gặp cảnh thu tới
Lòng mong về nhà xa xôi nghìn dặm, dãi cùng ánh trăng
Cơ nghiệp cũ đã vì chiến tranh mà hết sạch
Trên sông vẫn phải nghe tiếng trống trận ầm ầm
Dịch thơ:
Chiều muộn ghé Ngạc Châu
Hán Dương xa hiện giữa ngàn mây,
Thuyền vẫn còn đi hết một ngày.
Sóng lặng, khách đang yên giấc sáng,
Triều dâng, lái mải chuyện vừa hay.
Tam Tương tóc bạc buồn thu tới,
Nghìn dặm trăng treo dạ quắt quay.
Chiến cuộc phá tan cơ nghiệp cũ,
Trên sông trống trận vẫn còn lay.
Cao Nguyên
Mai Ngoc Cuong
(2008)
Chú thích
Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông
No comments:
Post a Comment