Mùa hè đã về trên thị trấn Poole thật dễ chịu với thời tiết
trở nên ấm áp hơn. Tuy thế, vào buổi sáng người ta vẫn còn thấy màn sương đục
bao phủ cả thị trấn biển cho đến khi những tia nắng từ phương đông rọi xuống
dần dần làm tan lớp sương mù như không bao giờ muốn rời bỏ những mái ngói, ngọn
cây, những tháp chuông nhà thờ và cả những ngọn đồi cỏ xanh thẫm hoặc những
công viên đủ màu sắc của các loài hoa lung linh dưới những tàn cây xanh lá.
Bầu trời màu xanh dần dần hiện ra
trên thị trấn. Những làn gió mát rượi từ
bờ biển phía nam thổi vào các dãy phố có những con đường nhỏ lát đá hoa cương
chạy quanh co từ khu phố này qua khu phố khác. Người dân thị trấn đã bắt đầu mở
những cánh cửa sổ trên gác để nhìn bâng quơ ra đường vào buổi sáng cuối tuần.
Nhiều người đã rời nhà để đi lễ nhà thờ trong những bộ y phục thật chỉnh tề,
đẹp đẽ. Các cửa tiệm đều đóng cửa. Chỉ có người đi bộ. Thỉnh thoảng mới thấy
vài chiếc xe ngựa lọc cọc chạy trên
đường chở những người thuộc những gia đình giàu có nhắm về phía giáo đường. Hồi
chuông đầu tiên rộn rã báo hiệu cho mọi người biết là đã sắp đến giờ hành lễ.
Trong số những người đang trên đường
đến giáo đường, có một người đàn ông tách ra khỏi đám đông để đi ngược về hướng
bến phà rồi tìm một chỗ ngồi dành cho những người chờ đợi chuyến phà đầu tiên
trong ngày. Người đàn ông đặt cái túi vải nhà binh lớn và chiếc ba lô xuống nền
gạch lỗ chỗ màu xám tro. Ông ta đội chiếc nón rộng vành màu kaki sậm của các sĩ
quan kỵ binh tiệp màu với bộ quần áo tuy cũ nhưng được ủi rất kỹ. Ông còn có chiếc
gậy cầm tay màu nâu sậm do ông làm và giữ như là một báu vật từ đất Phi Châu
mang về sau trận chiến với người Boeur tại thành Mafeking. Những người tò mò có
thể thấy ở phía trên chiếc gậy có khắc mấy chữ “Mafeking 1899”. Người đàn ông
lấy trong túi áo ra một cuốn sổ con rồi cặm cụi ghi chép...
Khoảng mười lăm phút sau ngưới ta
thấy hai mươi thiếu niên trạc tuổi mười hai cho đến mười bốn mười lăm, vai đeo
ba lô, tay cầm gậy, ăn mặc gọn gàng – quần sọt xanh– áo ngắn tay màu kaki và một
chiếc khăn màu xanh lá cây quàng quanh cổ, đầu đội nón berêt màu đen đến từ các
hướng khác nhau. Các em reo mừng khi
thấy người đàn ông đã có mặt trên bến phà như đã hẹn. Các em vây quanh ông để
chào hỏi. Người đàn ông bắt tay từng em một rồi dặn dò vài điều trước khi hướng
dẫn cho các em lên phà. Nắng đã lên cao. Phà tách bến đúng chín giờ ngày hai
mươi chín tháng bảy năm một nghìn chín trăm lẻ bảy, trực chỉ Brownsea là hòn
đảo lớn nhất trong số tám hòn đảo nằm quanh vùng cảng Poole Harbour của quận
hạt Dorset. Gió biển từ phương nam lồng lộng thổi vào những khuôn mặt rạng rỡ
của đám thiếu niên. Người đàn ông lại lấy cuốn sổ nhỏ ra để đánh dấu tên từng
em có mặt. Những khách qua phà hiếu kỳ hôm ấy hỏi thăm các em đi đâu mà vui
thế....và các em đều trả lời... “chúng em đi cắm trại”... Và người đàn ông
hướng dẫn các em hôm đó không ai khác hơn là ông Robert Baden Powell, cựu trung
tướng trong quân đội hoàng gia Anh. Năm đó ông vừa đúng năm mươi tuổi.
Khi
màn đêm buông xuống, hàng vạn vì sao lấp lánh trên bầu trời trong, Robert Baden
Powell cùng với hai mươi thiếu niên ngồi
quây quần bên ánh lửa. Sóng biển tứ bề rì rào hòa cùng với tiếng gió từ rừng
thông tạo thành một chuỗi âm thanh kỳ diệu của miền hoang dã. Những cánh chim
đi kiếm ăn từ phương xa đã kéo nhau về trú đêm trong rừng thông có triền thoai
thoải chạy xuống sát với bờ hồ. Ðám thiếu niên ngồi sát lại gần nhau như để
tránh màn đêm tối đen đang vây quanh sau lưng. Robert Baden Powell mở đầu để
phá tan bầu không khí lạnh lẽo bằng một bài dân ca ngắn của người Tô Cách Lan
vào thế kỷ thứ mười tám và sau đó hướng dẫn cho các em cùng hát “...Những
người thợ rừng là những Hướng Ðạo, theo dấu chân muôn thú đi khắp nơi, ngủ dưới
bầu trời sao và băng qua bao nhiêu thác ghềnh hiểm nguy, vẫn cười vang từ bình
minh cho tới hoàng hôn...” Ngọn lửa càng lúc càng bốc cao, hơi ấm đã chuyền
vào tận trong tim các em. Rồi từng em một kể chuyện về mình như để làm quen và
hiểu nhau hơn sau một ngày sinh hoạt chung. Mỗi em một hoàn cảnh, có một nhận
thức riêng về xã hội mà các em đang sống nhưng đêm nay các em đã có cùng một ý
nghĩ là “ như anh em một nhà...”.
Sáng
hôm sau ba em Philippe, Andrew và Brian (*) là ba đội trưởng dẫn ba đội tập họp
trước sân cờ và tự điều khiển buổi chào cờ buổi sáng. Trước khung cảnh thiên
nhiên hùng vĩ và không khí trong lành ban mai, tất cả các em và vị huynh trưởng
đáng kính đã cảm nhận được thế nào là sự thiêng liêng khi những con người nhỏ
bé đứng dưới đất trời mênh mông, bốn bề trên dưới chỉ có trời đất và biển cả
chung quanh. Nỗi xúc động hiện rõ trên từng nét mặt của các em. Robert Baden
Powell đọc lời cầu nguyện và nói vài lời về Niềm Tin Thượng Ðế.
Sau khi ăn sáng, các đội tập họp
riêng để đặt tên đội và tiếng kêu của đội. Ðó là các đội Mãnh Sư, Bồ Câu và Ðại
Bàng. Các em tìm những vỏ cây rừng và lá kết thành những đầu con vật được đặt
làm tên của đội. Ngoài ra, các em còn chọn cho đội của mình một bài hát ngắn để
hát mỗi khi tập họp chung. Không khí thi đua giữa các đội được thể hiện qua một
số trò chơi và các điều học được về chuyên môn trại. Các em đã biết nhóm bếp và
làm các món ăn khá hơn ngày hôm trước. Dưới ánh nắng chan hòa của mùa hè quyện
với gió biển, nước da các em đã đổi từ màu trắng sang màu nâu. Các em đã đi
nhanh hơn, tập họp đúng giờ hơn và không còn vất rác bừa bãi ở chung quanh lều.
Các em biết thế nào là yêu thiên nhiên, không chặt đốn những cành cây, không
dùng dao để phóng vào các thân cây như một trò chơi. Các em đi nhặt nhạnh những
nhánh cây khô đó đây về làm củi nấu nướng. Nước trong uống được đã có sẵn ở hồ
và chỉ cần bỏ vào ít thuốc sát trùng và đun sôi là ổn thỏa. Ðêm lửa trại thứ
nhì diễn ra rất vui nhộn vì nhiều màn hoạt náo do các em sáng tác để diễn, mô
tả các sinh hoạt trong ngày khiến cho Baden Powell rất ngạc nhiên, đánh giá cao
tinh thần và khả năng của các em.
Robert
Baden Powell rất ngạc nhiên và thích thú khi đọc được các tờ tường trình có kèm
theo hình vẽ về các cuộc thám du của các đội. Ðội Mãnh Sư có bản tường trình về
Brownsea Island như sau: Ðảo được biết đến vào thế kỷ thứ mười bảy khi một nhà
tu trì ẩn dật dùng đèn để báo hiệu và dẫn đường cho những chiếc thuyền cập vào
đảo. Ðảo có bề dài là 1.50 dặm và bề ngang là 0.75 dặm. Ðến năm 1015 vua Canute
đã đặt chân lên đảo lần đầu tiên.Thời vua Henry VIII thì đảo được củng cố và
các lâu đài được xây dựng lên như những thành trì kiên cố trong suốt thời kỳ
nội chiến. Hệ thống điện được đưa đến đảo cuối thế kỷ 19, sau đó các lâu đài bị
cháy rồi được sửa chữa lại từng phần
một. Cũng vào thế kỷ 19, William Waugh đến đảo để khai thác đất sét. Các cơ sở
được dựng lên ở phía tây của đảo, một bến tàu và một đoạn đường xe điện cũng
được thiết lập. Với tổn phí rất lớn vào thời đó, Waugh đã xây dựng một thánh
đường lớn theo kiểu Gothic và được đặt tên là thánh đường St. Mary. Ðội Bồ Câu
đúc kết bản tường trình về đời sống hoang dã với những ghi nhận đặc biệt là sự
hiện diện của loài Sóc Ðỏ trên đảo với những bộ lông màu đỏ mượt mà, những con
diệc màu xám, những chú cò trắng và những đàn chim bồ nông mỏ cong rủ nhau về
tụ tập kiếm ăn chung quanh hai hồ nước hoặc trên những dòng suối nhỏ róc rách
trong rừng. Những người sống trên đảo đã chỉ cho các em thấy những chú nai ưa
phá phách tên là “Sika Deer” cùng những bầy nhạn biển màu xám thường sà xuống
kiếm ăn trên nhưng bờ cát mỗi khi mặt trời đã lên cao. Ðội Ðại Bàng thì sưu tầm
thực vật, đặc biệt là hai loại cây mọc trên đảo hằng nhiều trăm năm trước như
các loại tùng bách thông và đỗ quyên. Các em cũng nhặt những mẩu lá,vỏ và trái
của các loại cây trên với những lời ghi chú đầy đủ kèm theo một số hình vẽ. Qua
những lần mạo hiểm thám du, các em đã học được rất nhiều điều kỳ diệu về thiên
nhiên. Những buổi sáng các em được chiêm ngưỡng cảnh mặt trời hùng vĩ mọc ở
phương đông khi các em cùng chạy bộ và tập thể dục trên bãi biển với Robert
Baden Powell. Buổi chiều các em lại ngắm nhìn cảnh mặt trời đỏ ối lặn ở phương
tây. Buổi tối ngồi dưới bầu trời đầy sao với mảnh trăng nghiêng bên sườn đồi vi
vút gió. Ðối với các em, đây là lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy những
cảnh tượng vô cùng hùng vĩ như thế. Ðiều này cũng đã khiến cho các em suy nghĩ
và nhận thức được rằng: Ðã có một Ðấng tạo hóa, một Ðấng toàn năng bao trùm lên
trên vũ trụ mênh mông mà các em chỉ là một trong những sinh vật nhỏ bé và vô
nghĩa.
Tình bằng hữu thắm thiết đã nẩy nở
giữa các em tự lúc nào chẳng biết. Giờ đây các em sống cùng chung dưới một mái
lều, cùng ca hát, cùng đùa chơi, cùng thi đua và cùng học hỏi những điều mà các
em chưa hề biết dưới sự chỉ dẫn ân cần trìu mến của vị cựu tướng lãnh tài ba và
hiểu rõ tâm lý của các em hơn ngay cả
chính cha mẹ của các em. Các em vô cùng cảm phục khi biết vị huynh
trưởng mỗi đêm đã đến lều để xem các em có mặc áo và đắp chăn đủ ấm hay không,
sáng dậy hỏi han các em có ngủ được hay không, sức khỏe các em thế nào, có em
nào bị ho bị cảm hay không...Các em cũng rất cảm động khi được vị huynh trưởng
hỏi thăm về gia đình và việc học hành ở trường của từng em một. Các em nhận
được và cũng đã chia sẻ rất nhiều với
các bạn đồng đội.
Trước
khi rời trại một ngày, Robert Baden
Powell và hai mươi trại sinh đã cùng nhau đến thánh đường St. Mary trong buổi
sáng để tạ ơn và cầu nguyện. Tâm hồn các em thật trong sáng và vui tươi như
những tia nắng sớm bình minh trên biển cả trong lành. Các em không che dấu được
nỗi buồn khi bước chân ra khỏi thánh đường vì biết mình phải chia tay vào ngày
hôm sau. Tối hôm đó, ngày 8 tháng tám, trời đổ sương rất sớm và gió lạnh từ bờ
biển phía đông tràn vào, vị huynh trưởng và hai mươi thiếu niên ngồi sát bên
nhau quanh vòng lửa. Tiếng reo tí tách của lửa hồng hòa cùng với tiếng gió và
tiếng sóng ì ầm tạo thành một thứ âm thanh chập chùng hoang dại. Ðêm nay là đêm
lửa trại cuối cùng.
Các em đều lắng lòng chờ đợi một điều gì đó có vẻ khác
thường. Robert Baden Powell cũng cảm nhận được điều đó. Ông xúc động thật sự.
Vài phút yên lặng trôi qua, trong từng trái tim của mỗi em hình như đang nghẹn
ngào, chỉ chờ có cơ hội là chúng có thể sẽ òa lên để khóc một cách dễ dàng.
Robert Baden Powell cũng biết điều đó
khi ông chưa biết phải nói điều gì để thay cho điều mà ông dự định sẽ nói. Rồi
để nhanh chóng phá tan bầu không khí nặng nề, ông đã dõng dạc hát - chậm và
trang trọng Bài Ca Chia Tay cổ truyền Anh Cát Lợi. Hai mươi tiếng hát
cùng cất theo hòa cùng với tiếng sóng biển tiếng gió ngàn đang vây bủa chung
quanh. Dứt bài hát, Robert Baden Powell nói lời cám ơn tất cả các em cùng những
lời ngợi khen chân thành vì các em đã cùng ông sống qua những ngày hạnh phúc
tuyệt vời nơi khung cảnh thiên nhiên. Các em đã học được nhiều điều bổ ích và
ngay cả chính ông, ông cũng đã học được rất nhiều điều nơi thiên nhiên và nơi
cả các em. Ông không quên cám ơn Thượng Ðế đã cho tất cả mọi người những ngày
vui bình an. Từng em từng em một sau đó bày tỏ cảm tưởng của mình trong suốt
mười một ngày ở trại. Nhiều em chỉ nói được vài câu rồi khóc tức tửi vì quá xúc
động. Không muốn kéo dài giây phút buồn bã, Robert Baden Powell đứng dậy, các
em đứng dậy theo và nắm tay nhau siết chặt như để chuyền cho nhau từng hơi thở
của nhịp tim nồng ấm. Họ lặng lẽ trở về lều trong cái lạnh bất thường của đêm
hè.
Sáng
hôm sau mọi người thu dọn trại để trở về thị trấn Poole bằng chuyến phà đầu
tiên trong ngày. Phụ huynh của hai mươi em đã có mặt trên bến phà để đón Robert
Baden Powell và các em trong sự hân hoan. Trong suốt thời gian các em dự trại,
nhiều phụ huynh cũng không được yên tâm cho lắm. Họ sợ các em bị bệnh, bị lạnh,
bị đói, bị tai nạn, bị buồn, bị nhớ nhà...Nhưng Robert Baden Powell đã tường
trình vắn tắt đồng thời với những lời kể của các em đã khiến cho phụ huynh mừng
vui và ngỏ lời cám ơn Robert Baden Powell. Khi các em cùng với phụ huynh lần
lượt rời bến phà, Robert Baden Powell lấy trong túi áo ra cuốn sổ con và vừa
cười một mình vừa ghi: “Hôm nay là ngày 9 tháng tám năm 1907 tại bến phà
Poole...”
Gần
một tuần lễ sau, Robert Baden Powell nhận hai mươi lá thư của các trại sinh đòi
ông tổ chức thêm trại, mười bảy lá thư từ các bạn của trại sinh xin ông cho
chúng được đi trại trong những lần tới. Ông nhận được nhiều thư của phụ huynh
cũng với những yêu cầu như trên. Ông trả lời tất cả những thư đã nhận được.
Những thiếu niên kể trên sau đó đều trở thành những Hướng Ðạo Sinh của thiếu
đoàn Saint Georges là thiếu đoàn đầu tiên trên đất Anh.
Hoàng Kim Châu RS
(*) Trại sinh Brian Evans
Lombe sau trở thành sĩ quan trong quân đội với cấp bậc đại tá và là người trại
sinh cuối cùng của trại đầu tiên tại Brownsea Island từ trần vào năm 1994 hưởng
thọ đúng 100 tuổi.
No comments:
Post a Comment